Phạm Đình Trọng – Về với dân


Phạm Đình Trọng – Về với dân

1. TÔI KHÔNG HÁT ĐỒNG CA

Buổi tối cuối cùng ở Hà Nội trong chuyến đi chớp nhoáng, tôi nhận được phone của nhà thơ Hoàng Hưng báo tin đại tướng Võ Nguyên Giáp mất và đặt tôi viết bài. Có đôi điều làm tôi đắn đo không thể viết ngay và viết xong tôi cũng không muốn gửi ngay cho người đặt bài.

Dù Võ Nguyên Giáp không vướng vào những sai lầm chính trị, không tham gia vào những tội ác mà những người Cộng sản đã gây cho dân tộc Việt Nam trong những vụ tàn sát đẫm máu như cải cách ruộng đất, hãm hại tinh hoa, trí tuệ Việt Nam như vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại, gây hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam như khi đẩy một bộ phận dân tộc Việt Nam ở miền Nam vào những trại tập trung khắc nghiệt, dã man, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn là người có công rất lớn, có thể coi là công đầu, giúp chủ nghĩa Cộng sản chiến thắng và ngạo nghễ ngự trị trên đất nước Việt Nam.

Khi chủ nghĩa Cộng sản đã phơi bày những tội ác chống lại loài người, mang lại đau thương chết chóc thê thảm cho dân tộc Việt Nam, phá nát đạo lí, văn hóa Việt Nam, nhấn chìm dân tộc Việt Nam văn hiến lún sâu trong nghèo đói, lạc hậu, trong bạo lực mất tính người và gây hận thù, chia rẽ, li tán sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam, khi những người Cộng sản lứa đàn em gần gũi của Võ Nguyên Giáp như Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính… đã thấy rõ bản chất nguy hại của học thuyết Cộng sản, đã quyết liệt dấn thân vào cuộc chiến đấu đầy hi sinh mất mát để xóa bỏ cái ác Cộng sản trên đất nước Việt Nam thân yêu thì Võ Nguyên Giáp vẫn trung thành Cộng sản, vẫn thành kính ngợi ca đảng Cộng sản, vẫn tự coi là học trò nhỏ của người đã rước giáo điều Cộng sản về nô dịch nhân dân Việt Nam, phá nát đất nước Việt Nam.

Khi những đồng đội, những bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi nhất của Võ Nguyên Giáp như Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng cục Tác chiến, đại tá Đỗ Đức Kiên, Cục trưởng cục Tình báo, đại tá Lê Trọng Nghĩa, Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, thượng tá Hoàng Thế Dũng… bị cái ác Cộng sản vu cho tội xét lại và bị hãm hại đến thân tàn ma dại, khi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh khảng khái lên tiếng bảo vệ đồng đội, bảo vệ những người lính trung thực bị hãm hại và bình thản chấp nhận bị hạ quân hàm, bị mất các chức vụ nhưng con người trung thực, nghĩa khí, lương thiện của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh đã bộc lộ sáng chói. Còn Bộ trưởng bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì im lặng giữ thân, giữ chức.

Viết về một người như vậy, dù người đó đã góp thêm ánh hào quang cho trang sử Việt Nam giữ nước cũng không thể không đắn đo.

Từ khi Tướng Võ Nguyên Giáp nằm xuống liền có ngay một dàn đồng ca đông đảo hòa giọng ngợi ca vị Tướng chiến trận. Cả một ngôi đền lừng lững đã được dựng lên trong không gian tâm linh dân tộc và vị Tướng vừa nằm xuống trở thành vị Thánh trong ngôi đền râm ran tiếng tụng niệm. Tôi đánh giá cao công tích của Tướng Giáp trong cầm quân trận mạc nhưng tôi không phải là tín đồ rập đầu tụng niệm trong ngôi đền kia, tôi không thể góp giọng trong dàn đồng ca kia. Dàn đồng ca cả triệu người dù say sưa đến đâu cũng không thể ngân nga mãi. Tôi chờ sự yên tĩnh trở lại, chờ sự thoát đồng trở về đời thực để được nói đôi điều thường tình của một người phàm thế.

2. HAI VỊ TƯỚNG, HAI SỐ PHẬN

 

Tháng hai, năm 1951, đại hội đổi tên đảng Cộng sản Đông Dương thành đảng Lao động Việt Nam. Ngoài chủ nghĩa Mác Lê nin, đại hội còn chính thức lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng tư tưởng của đảng Lao động Việt Nam, đại hội đẩy dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi vào cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu đánh vào chính dân tộc Việt Nam, gieo rắc hận thù giai cấp trong lòng dân tộc Việt Nam, bắn giết, tù đày chính nòi giống Việt Nam, hủy hoại tận gốc những giá trị văn hóa, đạo lí Việt Nam. Trước khi có đại hội đảng tai họa này, cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ đơn thuần là cuộc kháng chiến chống xâm lược, giành và giữ độc lập dân tộc, là sự nối tiếp sự nghiệp cứu nước của Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám…

“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”

Lời kêu gọi của vị thống soái cuộc kháng chiến đã nêu đúng bản chất khởi đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương 1946 – 1954. Không còn con đường nào khác, buộc phải tiến hành cuộc kháng chiến giữ nước, cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến chính nghĩa, thuận đạo lí đã thu hút, tập hợp được sức mạnh cả dân tộc Việt Nam. Tài năng và khí phách Việt Nam được khai thác, phát huy cao nhất. Từ đó xuất hiện những người lính anh dũng vô song và những nhà cầm quân lỗi lạc. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, trước đây Việt Nam đã có Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, nay có Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng tài khác.

Sau trận thắng lớn đầu tiên, thu đông năm 1947, đánh tan cuộc hành quân đầy tham vọng của quân viễn chinh Pháp nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Nam, ngày 20. 1. 1948, Chính phủ Việt Nam kháng chiến liền quyết định phong tướng cho những nhà cầm quân vừa thắng trận, vừa để hoàn chỉnh về tổ chức của một Nhà nước có quân đội được tổ chức chính qui, hiện đại, vừa để ghi nhận sự lớn mạnh của quân đội kháng chiến. Mười một chỉ huy cấp cao của quân đội kháng chiến được phong tướng. Một đại tướng: Võ Nguyên Giáp. Một trung tướng: Nguyễn Bình. Chín thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Thái, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình.

Trong mười một vị tướng trên, trung tướng Nguyễn Bình là người ra đi đầu tiên, ông mất năm 1951, khi mới 45 tuổi và đại tướng Võ Nguyên Giáp là người ra đi sau cùng. Cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi nhất trong mười một vị tướng nhưng trung tướng Nguyễn Bình cùng với đại tướng Võ Nguyên Giáp, người có cuộc đời binh nghiệp lâu dài nhất là hai vị tướng để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và để lại tình cảm sâu nặng nhất trong lòng người dân Việt Nam. Cũng vì dấu ấn sâu đậm hai vị tướng này để lại trong lịch sử và trong lòng dân, hai vị tướng còn để lại cả bí ẩn về tai nạn cuộc đời mà lịch sử còn phải soi rọi, khám phá.

Có công lao lớn với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Không một lần vướng sai lầm chính trị. Được Chủ soái Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng, gửi gắm. Được tướng sĩ trong toàn quân yêu quí coi là người anh cả của quân đội. Có sức mạnh của đội quân nhiều công trạng đứng phía sau. Với sức mạnh quân đội và ưu thế chính trị cá nhân đó, Võ Nguyên Giáp thừa sức thâu tóm quyền lực tuyệt đối trong tay nhưng ông không có mưu đồ quyền lực. Không tham vọng quyền lực nhưng ông lại là nạn nhân của những tham vọng quyền lực.

Sự lừng lẫy của vị tướng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, sự nổi tiếng của vị tướng đánh thắng đội quân hùng mạnh nhất thế giới làm cho thế giới chỉ biết có hai người khi nhắc đến cuộc chiến tranh Việt Nam là: “Hồ Chí Minh! Giáp! Giáp! Hồ Chí Minh! Giáp Giáp!” (Tiếng hô của người dân nhiều nước trên thế giới trong những cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam những năm bảy mươi, tám mươi, thế kỉ hai mươi). Vị tướng lừng lẫy trong lịch sử và trong thời đại đó đã làm cho người có quyền lực và háo danh, muốn để lại tên tuổi trong lịch sử chịu không nổi vì sợ bị lu mờ. Có quyền lực trong tay, họ liền dùng quyền lực xóa bỏ cả lịch sử, xóa bỏ tên tuổi tướng Giáp trong lịch sử. Suốt mấy chục năm trời tên tướng Giáp bị xóa khỏi trang sử Điện Biên Phủ. Họ ngụy tạo ra hồ sơ Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh mật thám Pháp, ngụy tạo ra vụ Sáu Sứ, một âm mưu đảo chính cung đình để ám sát con người chính trị Võ Nguyên Giáp.

Nhắc đến vụ việc cả hệ thống quyền lực ngang nhiên giết chết con người chính trị Võ Nguyên Giáp, tôi lại nhớ đến vụ phục kích giết chết con người thể xác trung tướng Nguyễn Bình.

Tên tuổi trung tướng Nguyễn Bình những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ cũng lừng lẫy như tên tuổi Võ Nguyên Giáp sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, sau 30.4.1975. Sau năm 1945, các tổ chức vũ trang của các giáo phái, của các tổ chức chính trị ở Nam Bộ nhiều như nấm. Nguyễn Bình đã tập hợp, thống nhất các tổ chức vũ trang này thành lực lượng kháng chiến chống Pháp và Nguyễn Bình trở thành vị tư lệnh đầy quyền uy của Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Người dân Nam Bộ truyền miệng những câu chuyện về sự ngang tàng, nghĩa khí, về sự xuất quỉ nhập thần của tướng Nguyễn Bình và họ tham gia kháng chiến chống Pháp vì lòng yêu nước và vì thần tượng tướng Nguyễn Bình chứ họ không hề biết đến những người Cộng sản.

Người đứng đầu tổ chức Cộng sản ở Nam Bộ lúc đó chỉ là trưởng phòng dân quân không ai biết đến trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ của Tướng lừng danh Nguyễn Bình. Con người đó sau này ra Hà Nội đứng đầu cả đảng Lao động Việt Nam, con người luôn chứa chất trong lòng tham vọng lớn về quyền lực và nỗi đố kị, tị hiềm không phải chỉ với riêng tướng Giáp. Đội quân kháng chiến của tướng Nguyễn Bình đang lớn mạnh thì tướng Bình được triệu tập ra Việt Bắc. Và những họng súng ở một ổ phục kích đã chờ đón tướng Bình ngay trong chặng đường rừng đầu tiên. Lập tức ông phải nhận lấy cái chết âm thầm đầy bí ẩn trong rừng sâu trên đất Campuchia!

3. KHẮC KHOẢI XUÂN MẬU THÂN 1968

 

Sau năm 1975, học xong khóa I trường Viết Văn Nguyễn Du, tôi có hai năm làm việc ở Ban Kí Sự Lịch Sử Quân Sự thuộc Tổng Cục Chính Trị. Ban có nhiệm vụ hoàn thành bản thảo bộ kí sự lịch sử “Trận Đánh Ba Mươi Năm” gồm 5 tập. Từ 1945 đến 1975, ba mươi năm chiến tranh được chia ra làm năm giai đoạn, mỗi giai đoạn là một tập sách. Gần ba mươi nhà văn, nhà báo quân đội chia làm năm nhóm, mỗi nhóm hoàn thành một tập bản thảo. Tôi và nhà văn Đào Thắng được bổ xung về Ban ở giai đoạn cuối và làm tập năm do nhà văn, thượng tá Nam Hà làm trưởng nhóm. Gặp gỡ các tướng lĩnh, những người hoạch định các chiến dịch, những người chỉ huy những trận đánh. Đọc hồi kí của các tướng lĩnh quân đội miền Bắc, quân đội miền Nam, quân đội Mĩ. Sục vào các kho hồ sơ lưu trữ… Nguồn tư liệu gốc ngổn ngang đó cho chúng tôi hình dung đầy đủ và chính xác từng chiến dịch từ cơn cớ ban đầu, đến diễn biến ở bản doanh, diễn biến ở mặt trận và giá máu phải trả. Từ đó chúng tôi cũng nhận ra những góc khuất của chiến tranh, những góc khuất của lòng người. Người háo danh, háo quyền lực đã không tiếc máu xương của hàng triệu người lính và dân lành để thỏa mãn sự háo danh đó.

Đầu năm 1967, Bí thư trung ương cục miền Nam, đại tướng Nguyễn Chí Thanh mới từ mặt trận miền Nam trở ra Hà Nội đã cùng Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn hình thành ý tưởng Xuân Mậu Thân 1968 Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định và chỉ đạo cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu làm kế hoạch thực hiện.

Trong mười một ủy viên Bộ Chính trị, tướng Giáp là người duy nhất lên tiếng không đồng tình với ý tưởng Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa Xuân 1968. Theo ông sức mạnh chiến tranh của quân Mĩ, quân đồng minh ở Nam Việt Nam và quân đội Sài Gòn đang trên đỉnh cao với hơn nửa triệu quân Mĩ và quân đồng minh, gần một triệu quân Sài Gòn. Chưa đủ thời gian thấm đòn chiến tranh nhân dân của ta, hơn nửa triệu quân Mĩ với máy bay chuyển quân bay rợp trời, xe tăng dàn trận bò kín đất đang chủ động mở những cuộc hành quân lớn đánh vào vùng đất quân giải phóng kiểm soát. Lúc đối phương lực đang còn mạnh và thế đang lên mà dốc vốn vào tổng công kích trận cuối cùng chỉ cháy túi, kiệt vốn, tự sát. Căn cứ quân nước ngoài không đặt trong thành phố, thị xã. Đánh vào tất cả thành phố, thị xã, trung tâm hành chính đông dân là nhằm vào người dân. Đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố là mang chết chóc đến cho dân lành và dàn mỏng lực lượng ta ra phơi mình trên địa hình trống trải, lạc lõng trong đường phố bàn cờ nhằng nhịt sẽ bị tiêu diệt đến người lính cuối cùng, chỉ tự chuốc lấy thương vong lớn, không thể có chiến thắng quyết định.

Thời điểm này chỉ nên mở cuộc tập kích chiến lược: Bất ngờ đồng loạt đánh vào tất cả các căn cứ quân Sài Gòn, quân Mĩ và đồng minh trên toàn miền Nam, cùng với tiêu hao sinh lực là đánh mạnh vào tinh thần chiến đấu của đối phương, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mĩ đòi Chính phủ đưa con em họ về nước, tạo ra bước ngoặt về cục diện chiến tranh. Khi yếu tố bất ngờ không còn, sức mạnh của đội quân khổng lồ, sức mạnh của vũ khí, sức mạnh của công sự phía đối phương được phát huy thì ta phải thu quân bảo toàn lực lượng cho những chiến dịch đánh lớn và quyết định tiếp theo.

Lí giải đúng đắn đó của tướng Giáp chỉ là một ý kiến lẻ loi đã bị bỏ qua.

Tháng 6 năm 1967, dưới sự chủ trì của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, hội nghị trung ương 14, khóa ba quyết định Tổng tiến công và Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968. Chiều 5. 7. 1967, Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cơm trước hôm lên đường trở lại miền Nam triển khai chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Từ bữa cơm đạm bạc, thân tình ở ngôi nhà sàn trong phủ Chủ tịch trở về nhà riêng ở phố Lý Nam Đế, Bí thư Trung ương cục miền Nam rạo rực nghĩ đến chiến thắng trong tầm tay. Niềm tin chiến thắng Xuân Mậu Thân mạnh đến nỗi suốt đêm đó Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh âm thầm vui sướng đến mất ngủ. Quá phấn khích, rạng sáng ngày 6.7.1967, ông bị cơn nhồi máu cơ tim cướp đi mạng sống.

Còn Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, đồng tác giả Tổng công kích Xuân Mậu Thân 1968, cũng có niềm tin vững chắc vào chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 đến mức ông đã trù liệu cả việc giành độc quyền chiến thắng, không cho những đối thủ chính trị được ghé tên, chia phần chiến thắng của ông bằng cách không để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp có mặt ở trong nước trong suốt thời gian chuẩn bị và quá trình diễn ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Không có mặt ở trong nước là không can dự gì vào chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 chỉ hoàn toàn từ Lê Duẩn, do Lê Duẩn, của Lê Duẩn.

Từ 5.9.1967, Hồ Chí Minh cùng người thư kí riêng thân tín đã phải lẻ loi, âm thầm rời đất nước sang Bắc Kinh nghỉ ngơi theo “quyết định của Bộ Chính trị và hội đồng bác sĩ”! Gần bốn tháng sau, mãi đến 23.12.1967 Hồ Chí Minh mới được điện mời về để tham dự cuộc họp Bộ Chính trị ngày 28. 12. 1967 và để đọc lời chúc Tết Mậu Thân 1968 cho đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam ghi âm. Xong việc, ngày 2.1.1968 Hồ Chí Minh lại tất tả, lủi thủi lên máy bay sang Tàu.

Là Chủ tịch đảng, Chủ tịch nước, có quê hương đất nước, có mấy chục triệu thần dân sùng bái mà Tết Mậu Thân 1968 tuổi già Hồ Chí Minh phải đón Tết bằng bánh bao, cơm Tàu, trong cô đơn, trong trống vắng lạnh lẽo nơi đất khách quê người như một kẻ thất thế lưu vong, không người thân thích, không hoa đào mứt tết, không bánh chưng, dưa hành. Đối xử như vậy với đương nhiệm Chủ tịch đảng, đương nhiệm Chủ tịch nước lại đã ở tuổi 78, thật tệ bạc, tàn nhẫn và độc ác!

Lại nữa, với âm mưu gì mà bố trí để một người già gần 80 tuổi đi chuyến bay vào đêm đông giá rét? Rồi khi máy bay hạ cánh trong đêm thì người lái lâu năm thuộc đường băng liền phát hiện ra đèn sân bay lệch mười lăm độ, máy bay phải lượn đến vòng thứ hai vẫn không dám hạ cánh. Báo cho sân bay nhưng đèn dẫn đường hạ cánh vẫn không thay đổi. Nếu là người lái chưa thuộc đường băng cứ hạ cánh theo đèn dẫn thì máy bay đã trượt khỏi đường băng và nổ tung rồi. Nhờ người lái lão luyện thuộc đường băng như thuộc đường ngõ xóm nhà mình nên cho máy bay hạ cánh theo trí nhớ, nhờ thế máy bay mới an toàn, người đi chuyến bay đó là Hồ Chí Minh mới còn mạng sống.

Không biết trong toan tính giành độc quyền chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn có tính đến sự cố chuyến bay chở Hồ Chí Minh hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm đêm 23. 12. 1967 không nhỉ? Một sự cố nghiêm trọng như vậy mà cho chìm xuồng lặng lẽ, không điều tra làm rõ cũng là điều rất không bình thường. Sự cố tày đình đó do sơ xuất của những người quản lí, khai thác sân bay gây ra, tất sẽ được tìm ra và truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn. Không được điều tra làm rõ, chỉ có thể là sự cố được bí mật tạo dựng bởi quyền lực tối cao như từ trên trời rơi xuống, không ai dám đụng đến, không thể khui ra, thôi đành cho qua!

Trong những ngày Hồ Chí Minh sống khắc khoải cô đơn bên Tàu thì Võ Nguyên Giáp cũng phải ngậm ngùi sống ở trời Tây Hungari hiu quạnh.

Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra đúng như những gì Võ Nguyện Giáp đã cảnh báo: Mang chết chóc đến dân lành và đội quân ở rừng đánh vào thành phố, ở lại giữ thành phố đã phải chịu tổn thất nặng nề nhất trong suốt cuộc chiến tranh ba mươi năm.

Hai bên tham chiến đã thỏa thuận ngừng chiến dịp Tết Nguyên đán để người dân được bình yên ăn tết. Bội ước thỏa thuận, đúng giao thừa Tết Mậu Thân, đêm 31.1.1968 lịch tây, đội quân ở rừng do Hà Nội chỉ huy, thực sự là đội quân miền Bắc, nổ súng đánh vào tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bị bất ngờ, quân miền Nam và đồng minh không kịp phản ứng, đành để mất nhiều khu vực trong các thành phố, thị xã cho đội quân miền Bắc làm chủ. Tình thế này dẫn đến hai hậu quả.

Một. Vùng thành phố, thị xã do quân miền Bắc làm chủ trở thành nơi chiến sự ác liệt nhất, nơi tập trung bom đạn của cả hai phía, nơi tắm máu dân lành. Thành phố Huế là nơi quân miền Bắc ở lại lâu nhất, 28 ngày, cũng là nơi tang thương nhất. Hơn 116 000 ngôi nhà bị tàn phá, trong đó 9 776 ngôi nhà bị san bằng, 3 776 dân lành bị bom đạn giao tranh giết chết. Đội quân từ rừng về coi những người dân làm việc trong bộ máy hành chính của chính quyền Sài Gòn hoặc liên quan đến chính quyền Sài Gòn đều là kẻ thù, là ác ôn phải loại bỏ. Chiến dịch diệt ác trừ gian nhằm vào dân thường cũng diễn ra khốc liệt nhất ở khắp các thành phố, thị xã.

Hai. Đội quân miền Bắc đánh vào thành phố chỉ nhờ yếu tố bất ngờ mà giành được thắng lợi ban đầu. Yếu tố bất ngờ không còn, đội quân đánh vào thành phố từ chủ động thành bị động, phải lấy thế yếu, thế bị động, thế cô lập, bị bao vây, chia cắt, phơi mình ra trên địa hình đường phố trống trải và lạ lẫm đương đầu với thế mạnh áp đảo của đội quân miền Nam. Cố giữ các thành phố, thị xã, những trung tâm hành chính để hòng dựng lên một chính quyền cách mạng thay thế chính quyền Sài Gòn nhưng càng cố giữ thành phố, thị xã thì các thành phố, thị xã miền Nam càng trở thành vực thẳm không đáy chôn vùi quân miền Bắc. Đơn vị sau thế chỗ đơn vị trước đã bị xóa sổ nhưng đơn vị thế chỗ càng về sau quân số càng ít ỏi! Nhiều đơn vị, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cả du kích bị xóa sổ nhiều lần! Nhiều đảng bộ, chi bộ hi sinh trắng không còn một đảng viên! Tết Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, quyết liệt nhất, mê say nhất, tàn bạo nhất và số người bị giết lớn nhất, phải tính tới con số hàng trăm ngàn mà bên bị tổn thất về người nặng nề nhất chính là đội quân dồn dập đánh vào các thành phố, thị xã miền Nam dưới sự đôn đốc từ Hà Nội do sự háo danh của người nhiều tham vọng quyền lực.

Lứa nhà văn quân đội chúng tôi hình thành trong cuộc chiến tranh Nam Bắc được Tổng cục Chính trị tập hợp về từ giữa năm 1976 đến mùa hè năm 1984 vẫn đang có mặt đông đủ ở Vân Hồ Ba, Hà Nội. Và Vân Hồ Ba Hà Nội trở thành địa chỉ thường xuyên lui tới của những người cầm bút đất kinh kì. Một buổi chiều muộn nhà văn Bùi Bình Thi phóng xe máy từ nhà sáng tác Quảng Bá, Hồ Tây đến Vân Hồ Ba hấp tấp kể với chúng tôi câu chuyện nhà văn vừa chứng kiến về người khởi xướng vụ tắm máu Tết Mậu Thân 1968 chạy trốn, chối bỏ trách nhiệm trước người dân, trước lịch sử.

Sau một ngày đóng cửa hì hục viết, trước bữa cơm chiều, các nhà văn đang ở trại sáng tác Quảng Bá thường sang phòng nhà văn quân đội, đại tá Xuân Thiều tán chuyện đợi nhà bếp mở cửa. Chiều nay vừa đủ mặt thì bỗng Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng người bảo vệ xuất hiện ở cửa phòng. Từ đại hội lần thứ tư cuối năm 1976, đảng Lao động Việt Nam đã đổi tên thành đảng Cộng sản Việt Nam và chức Bí Thư thứ nhất đổi thành Tổng Bí thư. Khu nhà nghỉ của cơ quan Trung ương đảng Cộng sản bên Hồ Tây, cách nhà sáng tác của hội Nhà Văn dăm phút đi bộ. Tổng Bí thư Lê Duẩn đang nghỉ ở đó. Buổi chiều ông đi dạo và ghé vào nhà sáng tác của các nhà văn. Các nhà văn đều là đảng viên Cộng sản nhận ra Tổng Bí thư của mình liền nồng nhiệt đón tiếp. Tổng Bí thư vui vẻ hỏi tên từng nhà văn. Nghe nhà văn Xuân Thiều tự giới thiệu là đại tá, Tổng Bí thư tươi cười hỏi: Đại tá hỉ? Nhà văn đại tá hỉ? Tốt hỉ? Nghe nhà văn Bùi Bình Thi xưng tên, ông bảo: À, à, Thi lãnh đạo hội Nhà Văn hỉ? Nhà văn cao lớn Bùi Bình Thi có nước da ngăm ngăm đen, có khuôn mặt đầy đặn và hàng lông mày rậm giống nhà văn Nguyễn Đình Thi vội cải chính: Dạ, thưa bác, cháu là Bùi Bình Thi, không phải Tổng Thư kí hội Nhà Văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi ạ! Trong không khí vui vẻ, nhà văn Xuân Thiều giãi bày: Thưa bác, tôi là Xuân Thiều, đại tá, nhà văn quân đội. Tôi đang viết tiểu thuyết về Huế trong tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều… Mới nghe có thế, Tổng Bí thư đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại tá mà ngu!… rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.

Thực chất của Tết Mậu Thân 1968 là vậy. Đến người chủ mưu khởi xướng ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 cũng co cẳng chạy trốn khi nghe nhắc đến Mậu Thân 1968 thì hằng năm có nên tưng bừng kỉ niệm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 không nhỉ? Chiến tranh đã qua lâu rồi. Cần thoát ra khỏi tuyên truyền tâm lí chiến, không thể coi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968, người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, người Việt bị giết chết nhiều nhất trong một chiến dịch, người Việt kề nòng súng vào tai người Việt bắn ngay trên đường phố là chiến thắng của bất kì phía nào, của bất kì ai.

Trở về với bản thể con người, trở về với cội nguồn dân tộc để nhận ra rằng Xuân Mậu Thăn 1968 là mùa xuân tang tóc của dân tộc Việt Nam, là trang đau buồn của lịch sử Việt Nam. Trang đau buồn đó cần ghi lên hàng đầu tên hai người. Một tên phải viết bằng mực đen và một tên viết bằng mực đỏ. Tên viết bằng mực đỏ là Võ Nguyên Giáp. Dù Võ Nguyên Giáp bị gạt ra bên lề chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 nhưng tiếng nói của Võ Nguyên Giáp khi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 được soạn thảo, tiếng nói không đưa chiến tranh chết chóc vào nơi tập trung dân cư, không đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố, là tiếng nói của trái tim Con Người, tiếng nói của dòng máu đỏ Việt Nam.

4. ĐƯỜNG VỀ

 

Bị xóa tên khỏi trang sử Điện Biên Phủ mà ông đã viết lên. Bị đẩy vào vai bị can trong những vụ án chính trị giả tạo. Kẻ làm những việc đó để chặn con đường chấp chính của Võ Nguyên Giáp lại đã mở cho Võ Nguyên Giáp con đường trở về với dân. Đánh xong giặc Ân, Thánh Gióng lại lên làm vua, lại xa dân trong ăn chơi hưởng lạc, lại đối lập với dân trong bòn rút, bóc lột dân thì Thánh Gióng đâu có được dân thờ. Dân gian truyền miệng câu chuyện đánh xong giặc, Thánh Gióng cưỡi ngựa bay về Trời là dân gian đã đưa Thánh Gióng trở về với dân, mãi mãi ở trong lòng dân. Nhờ thế non nước Việt Nam đã có làng Phù Đổng nơi Thánh Gióng ra đời, lại có ngọn núi Sóc linh thiêng, nơi Thánh Gióng về Trời, nơi Thánh Gióng về sống trong lòng dân. Như làng Phù Đổng, như ngọn núi Sóc, Thánh Gióng sẽ còn mãi với non nước, với lịch sử, với dân tộc Việt Nam.

Không trở về Trời, Võ Nguyên Giáp trở về cuộc sống của người dân để nói tiếng nói của dân. Võ Nguyên Giáp lên tiếng ngăn chặn việc phá hội trường Ba Đình. Ba lần Võ Nguyên Giáp viết thư cho những người đang chấp chính đòi dừng dự án bô xít Tây Nguyên. Chẳng có chức tước, danh vị, hàm cấp nào cao quí bằng được trở về với dân. Vì thế mọi danh hiệu, mọi hàm cấp Anh hùng, Nguyên soái, Đại Nguyên soái chẳng còn có giá trị gì với Võ Nguyên Giáp. Không bay về Trời. Không vào chỗ dành riêng cho tầng lớp vua quan xa dân ở Mai Dịch, Võ Nguyên Giáp về với non nước Việt Nam, về với dân gian Việt Nam ở doi đất bình dị ven biển Vũng Chùa, Quảng Bình quê nhà.

Ra đời bởi học thuyết sai trái, nhà nước Cộng sản Việt Nam phải tồn tại bằng dối trá. Với Nhà nước Cộng sản Việt Nam dối trá đó, mỗi người dân ngay thẳng, lương thiện, chân chính đều phải mang một nỗi oan khiên.

Nỗi oan khiên bị cướp những giá trị tinh thần của con người văn hóa nhiều vô kể. Nỗi oan khiên của người dân bị cướp của cải vật chất càng nhiều gấp bội.Người có tài, có nhiều công lao đóng góp, có lòng dũng cảm và niềm say mê cống hiến thì bị gạt ra, trở về hòa lẫn vào dân gian. Tài năng đành mai một. Ý chí cống hiến cũng đành vất bỏ. Kẻ bất tài, hèn nhát, vô tích sự, không biết làm việc, chỉ có nỗi thèm khát, tham lam của con người sinh vật, chỉ chăm chăm kiếm chác, mưu cầu danh lợi cá nhân thì danh vị, chức tước đầy mình. Những kẻ như vậy ngày nay ở chỗ nào cũng nhan nhản và Hồ Xuân Mãn, Bí thư tỉnh ủy, Anh hùng lực lượng vũ trang, nhân vật gương mẫu, xuất sắc trong học tập đạo đức Hồ Chí Minh là một dẫn chứng. Cả một thể chế dối trá đã tạo nên nhan nhản những Hồ Xuân Mãn cũng đã tạo nên triệu triêu dân oan.

Cả một dân tộc oan khiên và mất mát đã mở rộng lòng đón Võ Nguyên Giáp về với dân như một dân oan vĩ đại trong lịch sử.

Phạm Đình Trọng


Ảnh. Một số nhân vật được nhắc đến trong bài: Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trung tướng Nguyễn Bình. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh. Nhà văn Bùi Bình Thi. Thánh Gióng.

(Blog Phạm Đình Trọng)

Phạm Đình Trọng – Về với dân

1. TÔI KHÔNG HÁT ĐỒNG CA

Buổi tối cuối cùng ở Hà Nội trong chuyến đi chớp nhoáng, tôi nhận được phone của nhà thơ Hoàng Hưng báo tin đại tướng Võ Nguyên Giáp mất và đặt tôi viết bài. Có đôi điều làm tôi đắn đo không thể viết ngay và viết xong tôi cũng không muốn gửi ngay cho người đặt bài.

Dù Võ Nguyên Giáp không vướng vào những sai lầm chính trị, không tham gia vào những tội ác mà những người Cộng sản đã gây cho dân tộc Việt Nam trong những vụ tàn sát đẫm máu như cải cách ruộng đất, hãm hại tinh hoa, trí tuệ Việt Nam như vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại, gây hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam như khi đẩy một bộ phận dân tộc Việt Nam ở miền Nam vào những trại tập trung khắc nghiệt, dã man, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn là người có công rất lớn, có thể coi là công đầu, giúp chủ nghĩa Cộng sản chiến thắng và ngạo nghễ ngự trị trên đất nước Việt Nam.

Khi chủ nghĩa Cộng sản đã phơi bày những tội ác chống lại loài người, mang lại đau thương chết chóc thê thảm cho dân tộc Việt Nam, phá nát đạo lí, văn hóa Việt Nam, nhấn chìm dân tộc Việt Nam văn hiến lún sâu trong nghèo đói, lạc hậu, trong bạo lực mất tính người và gây hận thù, chia rẽ, li tán sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam, khi những người Cộng sản lứa đàn em gần gũi của Võ Nguyên Giáp như Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính… đã thấy rõ bản chất nguy hại của học thuyết Cộng sản, đã quyết liệt dấn thân vào cuộc chiến đấu đầy hi sinh mất mát để xóa bỏ cái ác Cộng sản trên đất nước Việt Nam thân yêu thì Võ Nguyên Giáp vẫn trung thành Cộng sản, vẫn thành kính ngợi ca đảng Cộng sản, vẫn tự coi là học trò nhỏ của người đã rước giáo điều Cộng sản về nô dịch nhân dân Việt Nam, phá nát đất nước Việt Nam.

Khi những đồng đội, những bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi nhất của Võ Nguyên Giáp như Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng cục Tác chiến, đại tá Đỗ Đức Kiên, Cục trưởng cục Tình báo, đại tá Lê Trọng Nghĩa, Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, thượng tá Hoàng Thế Dũng… bị cái ác Cộng sản vu cho tội xét lại và bị hãm hại đến thân tàn ma dại, khi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh khảng khái lên tiếng bảo vệ đồng đội, bảo vệ những người lính trung thực bị hãm hại và bình thản chấp nhận bị hạ quân hàm, bị mất các chức vụ nhưng con người trung thực, nghĩa khí, lương thiện của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh đã bộc lộ sáng chói. Còn Bộ trưởng bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì im lặng giữ thân, giữ chức.

Viết về một người như vậy, dù người đó đã góp thêm ánh hào quang cho trang sử Việt Nam giữ nước cũng không thể không đắn đo.

Từ khi Tướng Võ Nguyên Giáp nằm xuống liền có ngay một dàn đồng ca đông đảo hòa giọng ngợi ca vị Tướng chiến trận. Cả một ngôi đền lừng lững đã được dựng lên trong không gian tâm linh dân tộc và vị Tướng vừa nằm xuống trở thành vị Thánh trong ngôi đền râm ran tiếng tụng niệm. Tôi đánh giá cao công tích của Tướng Giáp trong cầm quân trận mạc nhưng tôi không phải là tín đồ rập đầu tụng niệm trong ngôi đền kia, tôi không thể góp giọng trong dàn đồng ca kia. Dàn đồng ca cả triệu người dù say sưa đến đâu cũng không thể ngân nga mãi. Tôi chờ sự yên tĩnh trở lại, chờ sự thoát đồng trở về đời thực để được nói đôi điều thường tình của một người phàm thế.

2. HAI VỊ TƯỚNG, HAI SỐ PHẬN

Tháng hai, năm 1951, đại hội đổi tên đảng Cộng sản Đông Dương thành đảng Lao động Việt Nam. Ngoài chủ nghĩa Mác Lê nin, đại hội còn chính thức lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng tư tưởng của đảng Lao động Việt Nam, đại hội đẩy dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi vào cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu đánh vào chính dân tộc Việt Nam, gieo rắc hận thù giai cấp trong lòng dân tộc Việt Nam, bắn giết, tù đày chính nòi giống Việt Nam, hủy hoại tận gốc những giá trị văn hóa, đạo lí Việt Nam. Trước khi có đại hội đảng tai họa này, cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ đơn thuần là cuộc kháng chiến chống xâm lược, giành và giữ độc lập dân tộc, là sự nối tiếp sự nghiệp cứu nước của Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám…

“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”

Lời kêu gọi của vị thống soái cuộc kháng chiến đã nêu đúng bản chất khởi đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương 1946 – 1954. Không còn con đường nào khác, buộc phải tiến hành cuộc kháng chiến giữ nước, cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến chính nghĩa, thuận đạo lí đã thu hút, tập hợp được sức mạnh cả dân tộc Việt Nam. Tài năng và khí phách Việt Nam được khai thác, phát huy cao nhất. Từ đó xuất hiện những người lính anh dũng vô song và những nhà cầm quân lỗi lạc. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, trước đây Việt Nam đã có Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, nay có Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng tài khác.

Sau trận thắng lớn đầu tiên, thu đông năm 1947, đánh tan cuộc hành quân đầy tham vọng của quân viễn chinh Pháp nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Nam, ngày 20. 1. 1948, Chính phủ Việt Nam kháng chiến liền quyết định phong tướng cho những nhà cầm quân vừa thắng trận, vừa để hoàn chỉnh về tổ chức của một Nhà nước có quân đội được tổ chức chính qui, hiện đại, vừa để ghi nhận sự lớn mạnh của quân đội kháng chiến. Mười một chỉ huy cấp cao của quân đội kháng chiến được phong tướng. Một đại tướng: Võ Nguyên Giáp. Một trung tướng: Nguyễn Bình. Chín thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Thái, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình.

Trong mười một vị tướng trên, trung tướng Nguyễn Bình là người ra đi đầu tiên, ông mất năm 1951, khi mới 45 tuổi và đại tướng Võ Nguyên Giáp là người ra đi sau cùng. Cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi nhất trong mười một vị tướng nhưng trung tướng Nguyễn Bình cùng với đại tướng Võ Nguyên Giáp, người có cuộc đời binh nghiệp lâu dài nhất là hai vị tướng để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và để lại tình cảm sâu nặng nhất trong lòng người dân Việt Nam. Cũng vì dấu ấn sâu đậm hai vị tướng này để lại trong lịch sử và trong lòng dân, hai vị tướng còn để lại cả bí ẩn về tai nạn cuộc đời mà lịch sử còn phải soi rọi, khám phá.

Có công lao lớn với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Không một lần vướng sai lầm chính trị. Được Chủ soái Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng, gửi gắm. Được tướng sĩ trong toàn quân yêu quí coi là người anh cả của quân đội. Có sức mạnh của đội quân nhiều công trạng đứng phía sau. Với sức mạnh quân đội và ưu thế chính trị cá nhân đó, Võ Nguyên Giáp thừa sức thâu tóm quyền lực tuyệt đối trong tay nhưng ông không có mưu đồ quyền lực. Không tham vọng quyền lực nhưng ông lại là nạn nhân của những tham vọng quyền lực.

Sự lừng lẫy của vị tướng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, sự nổi tiếng của vị tướng đánh thắng đội quân hùng mạnh nhất thế giới làm cho thế giới chỉ biết có hai người khi nhắc đến cuộc chiến tranh Việt Nam là: “Hồ Chí Minh! Giáp! Giáp! Hồ Chí Minh! Giáp Giáp!” (Tiếng hô của người dân nhiều nước trên thế giới trong những cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam những năm bảy mươi, tám mươi, thế kỉ hai mươi). Vị tướng lừng lẫy trong lịch sử và trong thời đại đó đã làm cho người có quyền lực và háo danh, muốn để lại tên tuổi trong lịch sử chịu không nổi vì sợ bị lu mờ. Có quyền lực trong tay, họ liền dùng quyền lực xóa bỏ cả lịch sử, xóa bỏ tên tuổi tướng Giáp trong lịch sử. Suốt mấy chục năm trời tên tướng Giáp bị xóa khỏi trang sử Điện Biên Phủ. Họ ngụy tạo ra hồ sơ Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh mật thám Pháp, ngụy tạo ra vụ Sáu Sứ, một âm mưu đảo chính cung đình để ám sát con người chính trị Võ Nguyên Giáp.

Nhắc đến vụ việc cả hệ thống quyền lực ngang nhiên giết chết con người chính trị Võ Nguyên Giáp, tôi lại nhớ đến vụ phục kích giết chết con người thể xác trung tướng Nguyễn Bình.

Tên tuổi trung tướng Nguyễn Bình những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ cũng lừng lẫy như tên tuổi Võ Nguyên Giáp sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, sau 30.4.1975. Sau năm 1945, các tổ chức vũ trang của các giáo phái, của các tổ chức chính trị ở Nam Bộ nhiều như nấm. Nguyễn Bình đã tập hợp, thống nhất các tổ chức vũ trang này thành lực lượng kháng chiến chống Pháp và Nguyễn Bình trở thành vị tư lệnh đầy quyền uy của Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Người dân Nam Bộ truyền miệng những câu chuyện về sự ngang tàng, nghĩa khí, về sự xuất quỉ nhập thần của tướng Nguyễn Bình và họ tham gia kháng chiến chống Pháp vì lòng yêu nước và vì thần tượng tướng Nguyễn Bình chứ họ không hề biết đến những người Cộng sản.

Người đứng đầu tổ chức Cộng sản ở Nam Bộ lúc đó chỉ là trưởng phòng dân quân không ai biết đến trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ của Tướng lừng danh Nguyễn Bình. Con người đó sau này ra Hà Nội đứng đầu cả đảng Lao động Việt Nam, con người luôn chứa chất trong lòng tham vọng lớn về quyền lực và nỗi đố kị, tị hiềm không phải chỉ với riêng tướng Giáp. Đội quân kháng chiến của tướng Nguyễn Bình đang lớn mạnh thì tướng Bình được triệu tập ra Việt Bắc. Và những họng súng ở một ổ phục kích đã chờ đón tướng Bình ngay trong chặng đường rừng đầu tiên. Lập tức ông phải nhận lấy cái chết âm thầm đầy bí ẩn trong rừng sâu trên đất Campuchia!

3. KHẮC KHOẢI XUÂN MẬU THÂN 1968

Sau năm 1975, học xong khóa I trường Viết Văn Nguyễn Du, tôi có hai năm làm việc ở Ban Kí Sự Lịch Sử Quân Sự thuộc Tổng Cục Chính Trị. Ban có nhiệm vụ hoàn thành bản thảo bộ kí sự lịch sử “Trận Đánh Ba Mươi Năm” gồm 5 tập. Từ 1945 đến 1975, ba mươi năm chiến tranh được chia ra làm năm giai đoạn, mỗi giai đoạn là một tập sách. Gần ba mươi nhà văn, nhà báo quân đội chia làm năm nhóm, mỗi nhóm hoàn thành một tập bản thảo. Tôi và nhà văn Đào Thắng được bổ xung về Ban ở giai đoạn cuối và làm tập năm do nhà văn, thượng tá Nam Hà làm trưởng nhóm. Gặp gỡ các tướng lĩnh, những người hoạch định các chiến dịch, những người chỉ huy những trận đánh. Đọc hồi kí của các tướng lĩnh quân đội miền Bắc, quân đội miền Nam, quân đội Mĩ. Sục vào các kho hồ sơ lưu trữ… Nguồn tư liệu gốc ngổn ngang đó cho chúng tôi hình dung đầy đủ và chính xác từng chiến dịch từ cơn cớ ban đầu, đến diễn biến ở bản doanh, diễn biến ở mặt trận và giá máu phải trả. Từ đó chúng tôi cũng nhận ra những góc khuất của chiến tranh, những góc khuất của lòng người. Người háo danh, háo quyền lực đã không tiếc máu xương của hàng triệu người lính và dân lành để thỏa mãn sự háo danh đó.

Đầu năm 1967, Bí thư trung ương cục miền Nam, đại tướng Nguyễn Chí Thanh mới từ mặt trận miền Nam trở ra Hà Nội đã cùng Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn hình thành ý tưởng Xuân Mậu Thân 1968 Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định và chỉ đạo cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu làm kế hoạch thực hiện.

Trong mười một ủy viên Bộ Chính trị, tướng Giáp là người duy nhất lên tiếng không đồng tình với ý tưởng Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa Xuân 1968. Theo ông sức mạnh chiến tranh của quân Mĩ, quân đồng minh ở Nam Việt Nam và quân đội Sài Gòn đang trên đỉnh cao với hơn nửa triệu quân Mĩ và quân đồng minh, gần một triệu quân Sài Gòn. Chưa đủ thời gian thấm đòn chiến tranh nhân dân của ta, hơn nửa triệu quân Mĩ với máy bay chuyển quân bay rợp trời, xe tăng dàn trận bò kín đất đang chủ động mở những cuộc hành quân lớn đánh vào vùng đất quân giải phóng kiểm soát. Lúc đối phương lực đang còn mạnh và thế đang lên mà dốc vốn vào tổng công kích trận cuối cùng chỉ cháy túi, kiệt vốn, tự sát. Căn cứ quân nước ngoài không đặt trong thành phố, thị xã. Đánh vào tất cả thành phố, thị xã, trung tâm hành chính đông dân là nhằm vào người dân. Đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố là mang chết chóc đến cho dân lành và dàn mỏng lực lượng ta ra phơi mình trên địa hình trống trải, lạc lõng trong đường phố bàn cờ nhằng nhịt sẽ bị tiêu diệt đến người lính cuối cùng, chỉ tự chuốc lấy thương vong lớn, không thể có chiến thắng quyết định.

Thời điểm này chỉ nên mở cuộc tập kích chiến lược: Bất ngờ đồng loạt đánh vào tất cả các căn cứ quân Sài Gòn, quân Mĩ và đồng minh trên toàn miền Nam, cùng với tiêu hao sinh lực là đánh mạnh vào tinh thần chiến đấu của đối phương, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mĩ đòi Chính phủ đưa con em họ về nước, tạo ra bước ngoặt về cục diện chiến tranh. Khi yếu tố bất ngờ không còn, sức mạnh của đội quân khổng lồ, sức mạnh của vũ khí, sức mạnh của công sự phía đối phương được phát huy thì ta phải thu quân bảo toàn lực lượng cho những chiến dịch đánh lớn và quyết định tiếp theo.

Lí giải đúng đắn đó của tướng Giáp chỉ là một ý kiến lẻ loi đã bị bỏ qua.

Tháng 6 năm 1967, dưới sự chủ trì của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, hội nghị trung ương 14, khóa ba quyết định Tổng tiến công và Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968. Chiều 5. 7. 1967, Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cơm trước hôm lên đường trở lại miền Nam triển khai chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Từ bữa cơm đạm bạc, thân tình ở ngôi nhà sàn trong phủ Chủ tịch trở về nhà riêng ở phố Lý Nam Đế, Bí thư Trung ương cục miền Nam rạo rực nghĩ đến chiến thắng trong tầm tay. Niềm tin chiến thắng Xuân Mậu Thân mạnh đến nỗi suốt đêm đó Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh âm thầm vui sướng đến mất ngủ. Quá phấn khích, rạng sáng ngày 6.7.1967, ông bị cơn nhồi máu cơ tim cướp đi mạng sống.

Còn Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, đồng tác giả Tổng công kích Xuân Mậu Thân 1968, cũng có niềm tin vững chắc vào chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 đến mức ông đã trù liệu cả việc giành độc quyền chiến thắng, không cho những đối thủ chính trị được ghé tên, chia phần chiến thắng của ông bằng cách không để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp có mặt ở trong nước trong suốt thời gian chuẩn bị và quá trình diễn ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Không có mặt ở trong nước là không can dự gì vào chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 chỉ hoàn toàn từ Lê Duẩn, do Lê Duẩn, của Lê Duẩn.

Từ 5.9.1967, Hồ Chí Minh cùng người thư kí riêng thân tín đã phải lẻ loi, âm thầm rời đất nước sang Bắc Kinh nghỉ ngơi theo “quyết định của Bộ Chính trị và hội đồng bác sĩ”! Gần bốn tháng sau, mãi đến 23.12.1967 Hồ Chí Minh mới được điện mời về để tham dự cuộc họp Bộ Chính trị ngày 28. 12. 1967 và để đọc lời chúc Tết Mậu Thân 1968 cho đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam ghi âm. Xong việc, ngày 2.1.1968 Hồ Chí Minh lại tất tả, lủi thủi lên máy bay sang Tàu.

Là Chủ tịch đảng, Chủ tịch nước, có quê hương đất nước, có mấy chục triệu thần dân sùng bái mà Tết Mậu Thân 1968 tuổi già Hồ Chí Minh phải đón Tết bằng bánh bao, cơm Tàu, trong cô đơn, trong trống vắng lạnh lẽo nơi đất khách quê người như một kẻ thất thế lưu vong, không người thân thích, không hoa đào mứt tết, không bánh chưng, dưa hành. Đối xử như vậy với đương nhiệm Chủ tịch đảng, đương nhiệm Chủ tịch nước lại đã ở tuổi 78, thật tệ bạc, tàn nhẫn và độc ác!

Lại nữa, với âm mưu gì mà bố trí để một người già gần 80 tuổi đi chuyến bay vào đêm đông giá rét? Rồi khi máy bay hạ cánh trong đêm thì người lái lâu năm thuộc đường băng liền phát hiện ra đèn sân bay lệch mười lăm độ, máy bay phải lượn đến vòng thứ hai vẫn không dám hạ cánh. Báo cho sân bay nhưng đèn dẫn đường hạ cánh vẫn không thay đổi. Nếu là người lái chưa thuộc đường băng cứ hạ cánh theo đèn dẫn thì máy bay đã trượt khỏi đường băng và nổ tung rồi. Nhờ người lái lão luyện thuộc đường băng như thuộc đường ngõ xóm nhà mình nên cho máy bay hạ cánh theo trí nhớ, nhờ thế máy bay mới an toàn, người đi chuyến bay đó là Hồ Chí Minh mới còn mạng sống.

Không biết trong toan tính giành độc quyền chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn có tính đến sự cố chuyến bay chở Hồ Chí Minh hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm đêm 23. 12. 1967 không nhỉ? Một sự cố nghiêm trọng như vậy mà cho chìm xuồng lặng lẽ, không điều tra làm rõ cũng là điều rất không bình thường. Sự cố tày đình đó do sơ xuất của những người quản lí, khai thác sân bay gây ra, tất sẽ được tìm ra và truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn. Không được điều tra làm rõ, chỉ có thể là sự cố được bí mật tạo dựng bởi quyền lực tối cao như từ trên trời rơi xuống, không ai dám đụng đến, không thể khui ra, thôi đành cho qua!

Trong những ngày Hồ Chí Minh sống khắc khoải cô đơn bên Tàu thì Võ Nguyên Giáp cũng phải ngậm ngùi sống ở trời Tây Hungari hiu quạnh.

Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra đúng như những gì Võ Nguyện Giáp đã cảnh báo: Mang chết chóc đến dân lành và đội quân ở rừng đánh vào thành phố, ở lại giữ thành phố đã phải chịu tổn thất nặng nề nhất trong suốt cuộc chiến tranh ba mươi năm.

Hai bên tham chiến đã thỏa thuận ngừng chiến dịp Tết Nguyên đán để người dân được bình yên ăn tết. Bội ước thỏa thuận, đúng giao thừa Tết Mậu Thân, đêm 31.1.1968 lịch tây, đội quân ở rừng do Hà Nội chỉ huy, thực sự là đội quân miền Bắc, nổ súng đánh vào tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bị bất ngờ, quân miền Nam và đồng minh không kịp phản ứng, đành để mất nhiều khu vực trong các thành phố, thị xã cho đội quân miền Bắc làm chủ. Tình thế này dẫn đến hai hậu quả.

Một. Vùng thành phố, thị xã do quân miền Bắc làm chủ trở thành nơi chiến sự ác liệt nhất, nơi tập trung bom đạn của cả hai phía, nơi tắm máu dân lành. Thành phố Huế là nơi quân miền Bắc ở lại lâu nhất, 28 ngày, cũng là nơi tang thương nhất. Hơn 116 000 ngôi nhà bị tàn phá, trong đó 9 776 ngôi nhà bị san bằng, 3 776 dân lành bị bom đạn giao tranh giết chết. Đội quân từ rừng về coi những người dân làm việc trong bộ máy hành chính của chính quyền Sài Gòn hoặc liên quan đến chính quyền Sài Gòn đều là kẻ thù, là ác ôn phải loại bỏ. Chiến dịch diệt ác trừ gian nhằm vào dân thường cũng diễn ra khốc liệt nhất ở khắp các thành phố, thị xã.

Hai. Đội quân miền Bắc đánh vào thành phố chỉ nhờ yếu tố bất ngờ mà giành được thắng lợi ban đầu. Yếu tố bất ngờ không còn, đội quân đánh vào thành phố từ chủ động thành bị động, phải lấy thế yếu, thế bị động, thế cô lập, bị bao vây, chia cắt, phơi mình ra trên địa hình đường phố trống trải và lạ lẫm đương đầu với thế mạnh áp đảo của đội quân miền Nam. Cố giữ các thành phố, thị xã, những trung tâm hành chính để hòng dựng lên một chính quyền cách mạng thay thế chính quyền Sài Gòn nhưng càng cố giữ thành phố, thị xã thì các thành phố, thị xã miền Nam càng trở thành vực thẳm không đáy chôn vùi quân miền Bắc. Đơn vị sau thế chỗ đơn vị trước đã bị xóa sổ nhưng đơn vị thế chỗ càng về sau quân số càng ít ỏi! Nhiều đơn vị, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cả du kích bị xóa sổ nhiều lần! Nhiều đảng bộ, chi bộ hi sinh trắng không còn một đảng viên! Tết Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, quyết liệt nhất, mê say nhất, tàn bạo nhất và số người bị giết lớn nhất, phải tính tới con số hàng trăm ngàn mà bên bị tổn thất về người nặng nề nhất chính là đội quân dồn dập đánh vào các thành phố, thị xã miền Nam dưới sự đôn đốc từ Hà Nội do sự háo danh của người nhiều tham vọng quyền lực.

Lứa nhà văn quân đội chúng tôi hình thành trong cuộc chiến tranh Nam Bắc được Tổng cục Chính trị tập hợp về từ giữa năm 1976 đến mùa hè năm 1984 vẫn đang có mặt đông đủ ở Vân Hồ Ba, Hà Nội. Và Vân Hồ Ba Hà Nội trở thành địa chỉ thường xuyên lui tới của những người cầm bút đất kinh kì. Một buổi chiều muộn nhà văn Bùi Bình Thi phóng xe máy từ nhà sáng tác Quảng Bá, Hồ Tây đến Vân Hồ Ba hấp tấp kể với chúng tôi câu chuyện nhà văn vừa chứng kiến về người khởi xướng vụ tắm máu Tết Mậu Thân 1968 chạy trốn, chối bỏ trách nhiệm trước người dân, trước lịch sử.

Sau một ngày đóng cửa hì hục viết, trước bữa cơm chiều, các nhà văn đang ở trại sáng tác Quảng Bá thường sang phòng nhà văn quân đội, đại tá Xuân Thiều tán chuyện đợi nhà bếp mở cửa. Chiều nay vừa đủ mặt thì bỗng Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng người bảo vệ xuất hiện ở cửa phòng. Từ đại hội lần thứ tư cuối năm 1976, đảng Lao động Việt Nam đã đổi tên thành đảng Cộng sản Việt Nam và chức Bí Thư thứ nhất đổi thành Tổng Bí thư. Khu nhà nghỉ của cơ quan Trung ương đảng Cộng sản bên Hồ Tây, cách nhà sáng tác của hội Nhà Văn dăm phút đi bộ. Tổng Bí thư Lê Duẩn đang nghỉ ở đó. Buổi chiều ông đi dạo và ghé vào nhà sáng tác của các nhà văn. Các nhà văn đều là đảng viên Cộng sản nhận ra Tổng Bí thư của mình liền nồng nhiệt đón tiếp. Tổng Bí thư vui vẻ hỏi tên từng nhà văn. Nghe nhà văn Xuân Thiều tự giới thiệu là đại tá, Tổng Bí thư tươi cười hỏi: Đại tá hỉ? Nhà văn đại tá hỉ? Tốt hỉ? Nghe nhà văn Bùi Bình Thi xưng tên, ông bảo: À, à, Thi lãnh đạo hội Nhà Văn hỉ? Nhà văn cao lớn Bùi Bình Thi có nước da ngăm ngăm đen, có khuôn mặt đầy đặn và hàng lông mày rậm giống nhà văn Nguyễn Đình Thi vội cải chính: Dạ, thưa bác, cháu là Bùi Bình Thi, không phải Tổng Thư kí hội Nhà Văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi ạ! Trong không khí vui vẻ, nhà văn Xuân Thiều giãi bày: Thưa bác, tôi là Xuân Thiều, đại tá, nhà văn quân đội. Tôi đang viết tiểu thuyết về Huế trong tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều… Mới nghe có thế, Tổng Bí thư đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại tá mà ngu!… rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.

Thực chất của Tết Mậu Thân 1968 là vậy. Đến người chủ mưu khởi xướng ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 cũng co cẳng chạy trốn khi nghe nhắc đến Mậu Thân 1968 thì hằng năm có nên tưng bừng kỉ niệm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 không nhỉ? Chiến tranh đã qua lâu rồi. Cần thoát ra khỏi tuyên truyền tâm lí chiến, không thể coi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968, người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, người Việt bị giết chết nhiều nhất trong một chiến dịch, người Việt kề nòng súng vào tai người Việt bắn ngay trên đường phố là chiến thắng của bất kì phía nào, của bất kì ai.

Trở về với bản thể con người, trở về với cội nguồn dân tộc để nhận ra rằng Xuân Mậu Thăn 1968 là mùa xuân tang tóc của dân tộc Việt Nam, là trang đau buồn của lịch sử Việt Nam. Trang đau buồn đó cần ghi lên hàng đầu tên hai người. Một tên phải viết bằng mực đen và một tên viết bằng mực đỏ. Tên viết bằng mực đỏ là Võ Nguyên Giáp. Dù Võ Nguyên Giáp bị gạt ra bên lề chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 nhưng tiếng nói của Võ Nguyên Giáp khi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 được soạn thảo, tiếng nói không đưa chiến tranh chết chóc vào nơi tập trung dân cư, không đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố, là tiếng nói của trái tim Con Người, tiếng nói của dòng máu đỏ Việt Nam.

4. ĐƯỜNG VỀ

Bị xóa tên khỏi trang sử Điện Biên Phủ mà ông đã viết lên. Bị đẩy vào vai bị can trong những vụ án chính trị giả tạo. Kẻ làm những việc đó để chặn con đường chấp chính của Võ Nguyên Giáp lại đã mở cho Võ Nguyên Giáp con đường trở về với dân. Đánh xong giặc Ân, Thánh Gióng lại lên làm vua, lại xa dân trong ăn chơi hưởng lạc, lại đối lập với dân trong bòn rút, bóc lột dân thì Thánh Gióng đâu có được dân thờ. Dân gian truyền miệng câu chuyện đánh xong giặc, Thánh Gióng cưỡi ngựa bay về Trời là dân gian đã đưa Thánh Gióng trở về với dân, mãi mãi ở trong lòng dân. Nhờ thế non nước Việt Nam đã có làng Phù Đổng nơi Thánh Gióng ra đời, lại có ngọn núi Sóc linh thiêng, nơi Thánh Gióng về Trời, nơi Thánh Gióng về sống trong lòng dân. Như làng Phù Đổng, như ngọn núi Sóc, Thánh Gióng sẽ còn mãi với non nước, với lịch sử, với dân tộc Việt Nam.

Không trở về Trời, Võ Nguyên Giáp trở về cuộc sống của người dân để nói tiếng nói của dân. Võ Nguyên Giáp lên tiếng ngăn chặn việc phá hội trường Ba Đình. Ba lần Võ Nguyên Giáp viết thư cho những người đang chấp chính đòi dừng dự án bô xít Tây Nguyên. Chẳng có chức tước, danh vị, hàm cấp nào cao quí bằng được trở về với dân. Vì thế mọi danh hiệu, mọi hàm cấp Anh hùng, Nguyên soái, Đại Nguyên soái chẳng còn có giá trị gì với Võ Nguyên Giáp. Không bay về Trời. Không vào chỗ dành riêng cho tầng lớp vua quan xa dân ở Mai Dịch, Võ Nguyên Giáp về với non nước Việt Nam, về với dân gian Việt Nam ở doi đất bình dị ven biển Vũng Chùa, Quảng Bình quê nhà.

Ra đời bởi học thuyết sai trái, nhà nước Cộng sản Việt Nam phải tồn tại bằng dối trá. Với Nhà nước Cộng sản Việt Nam dối trá đó, mỗi người dân ngay thẳng, lương thiện, chân chính đều phải mang một nỗi oan khiên.

Nỗi oan khiên bị cướp những giá trị tinh thần của con người văn hóa nhiều vô kể. Nỗi oan khiên của người dân bị cướp của cải vật chất càng nhiều gấp bội.Người có tài, có nhiều công lao đóng góp, có lòng dũng cảm và niềm say mê cống hiến thì bị gạt ra, trở về hòa lẫn vào dân gian. Tài năng đành mai một. Ý chí cống hiến cũng đành vất bỏ. Kẻ bất tài, hèn nhát, vô tích sự, không biết làm việc, chỉ có nỗi thèm khát, tham lam của con người sinh vật, chỉ chăm chăm kiếm chác, mưu cầu danh lợi cá nhân thì danh vị, chức tước đầy mình. Những kẻ như vậy ngày nay ở chỗ nào cũng nhan nhản và Hồ Xuân Mãn, Bí thư tỉnh ủy, Anh hùng lực lượng vũ trang, nhân vật gương mẫu, xuất sắc trong học tập đạo đức Hồ Chí Minh là một dẫn chứng. Cả một thể chế dối trá đã tạo nên nhan nhản những Hồ Xuân Mãn cũng đã tạo nên triệu triêu dân oan.

Cả một dân tộc oan khiên và mất mát đã mở rộng lòng đón Võ Nguyên Giáp về với dân như một dân oan vĩ đại trong lịch sử.

Phạm Đình Trọng


Ảnh. Một số nhân vật được nhắc đến trong bài: Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trung tướng Nguyễn Bình. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh. Nhà văn Bùi Bình Thi. Thánh Gióng.

(Blog Phạm Đình Trọng)

Ngày 21/10/2013 – Ai thống trị Việt Nam ngày nay: Đảng Cộng sản hay là Hán Ngụy?


TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI

TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI

‘Thành phần chủ đạo’ của nền kinh tế đang vắt kiệt sức dân

Được coi là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế của đất nước, song nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN), mà đặc biệt là các tổng công ty đầu ngành, liên tiếp cho thấy những màn trình diễn tồi, không những không đóng góp thiết thực vào sự tăng trưởng kinh tế, mà còn gây thiệt hại lớn đến nguồn vốn ngân sách, và quyền lợi của người dân.

Trong cuộc họp báo chiều 17/10 chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội sắp khai mạc, ông Nguyễn Hạnh Phúc – Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội – đã trao đổi với báo giới về một số nội dung liên quan đến tiến độ của dự thảo Hiến pháp, trong đó, nội dung quy định vai trò các thành phần kinh tế trong dự thảo Hiến pháp nhận được sự quan tâm đặc biệt. Ông Phúc nhấn mạnh: “Đương nhiên kinh tế nhà nước phải chủ đạo, không thể để tư nhân làm chủ đạo, không thì ai lo an sinh xã hội. Còn các thành phần kinh tế thì bình đẳng, không phân biệt”.

Tuy nhiên, không hiểu sao kinh tế tư nhân lại bị lôi vào cuộc tranh giành ngôi vị này, khi trước nay ứng cử viên duy nhất vẫn là kinh tế nhà nước, mà các ý kiến chỉ xoay quanh việc yêu cầu cần có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tức là bỏ luôn cái khoản “chủ đạo” đi. Và kinh tế nhà nước chủ đạo thì có mối quan hệ gì tới việc “lo” cho an sinh xã hội?!

Trên thực tế, sau gần 1/4 thế kỷ kinh tế nhà nước làm chủ kể từ sau giai đoạn mở cửa, và gần 10 năm sau khi gia nhập WTO, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam lại lao đao hơn hiện tại. Và trong suốt hơn hai thập kỷ qua, nhận được vô vàn ưu ái từ chính sách, đặc biệt đối với khâu cấp vốn cho tới các hoạt động thị trường cùng những đảm bảo “vàng” – làm ăn thua lỗ đã có tập thể chịu, chưa một vị giám đốc DNNN nào chỉ vì quản lý yếu kém mà bị bỏ tù, kê biên tài sản – nên rất nhiều DNNN tiếp tục rơi và tình trạng thua lỗ và thất thoát triền miên với con số lũy kế theo năm lên tới cả chục ngàn tỷ đồng.

Cái sự dửng dưng mỗi khi ngân sách bị thất thoát khiến người ta có cảm giác như những cái “tàu há mồm” nuốt chửng từ hàng nghìn tỷ có thể đến hàng trăm nghìn tỷ đồng như Vinashin, Vinalines… chỉ “nhẹ bẫng” so với tổng thu ngân sách mỗi năm vài trăm ngàn tỷ đồng – từ tiền thuế của dân?! Rõ ràng, nhiều người không đau xót vì trong hàng ngàn tỷ đồng thua lỗ, hay còn được một số người vớt vát gọi trệch đi là “nợ xấu chưa thu hồi”, thì một vị Tổng Giám đốc như Dương Chí Dũng cũng phải bỏ túi không ít, và bộ sậu – ê kíp giúp cho Dũng thực hiện được hành vi tham ô – cũng nhận được một khoản rất có thể lớn hơn nhiều lần.

Điểm qua một số DNNN có “máu mặt” nhất, được xếp trong top 10 của 500 DNNN có doanh thu và quy mô vốn lớn nhất thị trường (theo VNR500-2012), có thể thấy những cái tên như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Than khoáng sản (Vinacomin), Ngân hàng NN&PTNN (Agribank)… Tuy nhiên, là ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất trong hệ thống tài chính của Việt Nam với mạng lưới chi nhánh dày đặc, nhưng Agribank cũng là một trong những doanh nghiệp làm ăn bết bát nhất với tỷ lệ nợ xấu luôn dẫn đầu, lên đến 6,14% (báo cáo đến ngày 30/6/2012 – Ngân hàng Nhà nước). Thậm chí, theo thông tin từ beforeitsnews.com, tính đến hết tháng 8/2013, nợ xấu của Agribank lên tới 33.500 tỷ đồng, vượt 13,1% so với 29.605 tỷ đồng vốn điều lệ!

Một đại diện khác cho DNNN cũng “lẫy lừng” không kém về khả năng làm ăn là EVN với khoản lỗ tính riêng cho năm 2010 là 8.416 tỷ đồng, năm 2011 là 8.000 tỷ đồng (lỗ lũy kế đến năm 2010 xấp xỉ 25.000 tỷ đồng). Chỉ sang năm 2012, EVN mới bất ngờ tuyên bố có lãi thông qua một lộ trình tăng giá điện dày đặc: Năm 2009, giá điện tăng 8,92%; năm 2010, tăng 6,8%; năm 2011, từ tháng 1-3, tăng 15,3%, tháng 12/2011, giá điện tăng lần hai 5%; tháng 07/2012, tăng thêm 5%, tháng 12/2012, giá điện tăng lần hai 5%; và từ 1/08/2013, giá điện tăng 5%. Chỉ nhìn vào tốc độ tăng giá sản phẩm bán cho dân của một doanh nghiệp được vận hành bằng tiền (thuế) của dân trong một thị trường độc quyền cũng có thể thấy, việc doanh nghiệp này “làm ăn có lãi” là hoàn toàn vô nghĩa, thậm chí đi ngược lại với quyền lợi của khách hàng – là người dân.

Trong khi đó, Viettel – một tập đoàn kinh tế Nhà nước nhưng được tổ chức và điều hành với đặc thù riêng của quân đội – được cho là doanh nghiệp làm ăn có lãi thực sự, song cũng đang dính tới không ít khoản đầu tư ngoài ngành – vốn bị xem chính là một trong các thành phần cấu thành nên “lỗ thủng” cho nhiều Tập đoàn nhà nước – trong lĩnh vực xây dựng (với Vinaconex), năng lượng (với EVN Quốc tế), tài chính (với Công ty Tài chính CP Vinaconex), sản xuất-chế biến (với Công ty CP Công nghiệp cao su Coecco)…

Một “ông lớn” khác là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) lại “chơi chiêu” với các cơ quan quản lý và người tiêu dùng. Theo báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2013 của tập đoàn này, 6 tháng đầu năm, lợi nhuận hợp nhất trước thuế thu nhập doanh nghiệp đạt 898 tỷ đồng. Lãi lớn, nhưng liên tục phát ra thị trường thông điệp thua lỗ, lãi ít, kể khổ để tiện bề tăng giá xăng dầu tùy hứng, Petrolimex đang đi ngược lại lợi ích của người tiêu dùng – những cổ đông lớn nhất của chính các DNNN mà trong đó có tập đoàn này. Chưa dừng ở đó, mặc dù có lãi, nhưng Petrolimex vẫn “xin” khất thuế, nợ thuế vào cuối năm nay. Với kiểu làm ăn “chày bửa” như vậy, khó có thể hy vọng những doanh nghiệp kiểu này đóng góp gì cho nền kinh tế, cho người dân.

Điểm qua một vài “ông anh cả” trong các tập đoàn Nhà nước, có thể thấy tình trạng làm ăn thua lỗ là phổ biến. Trong trường hợp có lãi, thì phần sinh lời người dân cũng không được hưởng bởi ngay cả khi có thặng dư thì các doanh nghiệp này vẫn tìm cách tăng giá bán sản phẩm: EVN tăng giá bán điện trung bình 2 năm /lần, Petrolimex tăng giá bán xăng 5 lần chỉ trong vòng 3 tháng năm 2013, Viettel/MobiFone/Vinaphone tăng cước 3G 2 lần trong 6 tháng… với lý do bù lỗ trước đó!

Không những phần đóng góp cho xã hội rất thấp, mà phần lấy đi lại nhiều khi các doanh nghiệp này luôn tìm cách “hưởng thụ” với lương và những ưu đãi cực lớn cho người trong ngành. Ví dụ, theo kết quả kiểm toán, lương bình quân công ty mẹ EVN năm 2010 là 13,7 triệu đồng/tháng, lương cán bộ văn phòng EVN bình quân 30 triệu đồng/tháng; lương bình quân nhân viên công ty mẹ của Petrolimex là 21 triệu đồng/tháng (kiểm toán 2011)… Chưa kể những hoạt động đầu tư để hưởng thụ theo bề nổi, bề chìm mới được Thanh tra Chính phủ công bố một phần như EVN xây biệt thự, chung cư, trung tâm thể thao, vui chơi… cho cán bộ tại hàng loạt dự án, mà theo lời biện hộ của lãnh đạo tập đoàn này là để “tái tạo sức lao động”. Kèm theo những cục lương “khủng” thì những công trình giải trí, thư giãn của EVN đang được người dân è cổ ra cõng bằng “giá điện khủng”.

Trước những bất cập kể trên, một tỷ lệ lớn các tập đoàn Nhà nước, các DNNN quả có đóng “vai trò chủ đạo” trong nền kinh tế, nhưng không thiên về hướng điều tiết, dẫn dắt thị trường và đóng góp cho sự tăng trưởng ổn định bền vững của nền kinh tế, cũng như phục vụ quyền lợi của người dân, mà đáng tiếc theo hướng ngược lại.

Trên thực tế, càng đẩy mạnh vai trò của DNNN lên bao nhiêu thì đặc quyền, đặc lợi cho nhóm đối tượng này càng tăng lên bấy nhiêu, và làm giảm sức cạnh tranh của chính các doanh nghiệp này, và đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân – vốn đóng góp tới 31,3% thuế cho ngân sách Nhà nước (2011) – bấy nhiêu. Trong khi đó, việc khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tận dụng được chất xám, lẫn nguồn lực tài chính tự nguyện trong dân bao nhiêu thì đầu tư cho các DNNN càng tăng thêm yếu tố rủi ro về vốn ngân sách bấy nhiêu.

Mặt khác, nguồn gốc của an sinh xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào vẫn là từ tiền đóng thuế và nộp bảo hiểm của người dân cũng như các thành phần kinh tế, được chính phủ điều tiết thông qua các chương trình, chính sách, chứ việc các tập đoàn kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cũng không quyết định đến an sinh xã hội, nếu chưa muốn nói ngược lại, với tình trạng lỗ và xin khất lần như vậy, chính bản thân DNNN lại là một trong những nguyên nhân không nhỏ gây “thủng” quỹ bảo hiểm.

THEO SỐNG MỚI

 

Vì sao Tướng Giáp bị trù dập đến ngắc ngoải?

Đây là câu hỏi suốt nhiều năm được dấu kín khiến bao nhiêu người cố tìm hiểu mà hầu như không có câu trả lời.

Mấy hôm trước, tình cờ tôi gặp lại một cán bộ cao cấp, về hưu. Thuộc lớp đàn em lại từng được tiếp xúc khi ông còn đương chức, anh em gặp lại, rất vui, rủ nhau ra Đảo gió uống mấy li. Có hơi men, câu chuyện thêm đậm đà. Ông nhìn tôi chăm chú dường như có điều gì muốn thổ lộ, ít giây sau, nói :

Mấy hôm nay báo’’các lề’’ tung hô tướng Giáp dữ quá, đám viếng, tang chỉ thua kém cụ Hồ chút ít !

Tôi chua kịp’’phụ họa’’, ông anh khà (sau khi nhấp ngụm), tiếp: Cậu có hiểu vì sao tướng Giáp bị hai ông Duẩn – Thọ làm cho sống dở chết dở, không?

Thấy đây là cơ hội tìm hiểu chuyện thâm cung bí sử của chốn cung đình, tôi hăng hái lên tiếng ngay: Em làm sao mà biết được. Chả cứ em, nhiều người cũng thắc mắc nhưng’’bặt vô âm tín’’. Đây là chuyện cấm kị mà.

– Cũng đúng, anh biết chuyện này, im lặng gần cả cuộc đời, đến giờ, cũng sắp xuống lỗ rồi, đành kể cho chú nghe để chú hiểu thêm chốn quan trường của chế độ cộng sản nó như thế nào. Câu nói cửa miệng của cụ Hồ: ’’Đoàn kết, thống nhất, đại đoàn kết’’, thực ra chỉ là khẩu hiệu, trên thực tế chính trường không hề có’’Đại đoàn kết’’.

Ông anh ngừng lại, tợp tiếp, gắp miếng nhắm, nhai, nuốt đoạn kể cho tôi nghe câu chuyện cuộc đời của một số’’vĩ nhân’’. Các sự kiện ông diễn giải trong câu chuyện gây cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tôi cho rằng, ông là người hiểu biết nội tình của đảng CSVN. Câu chuyện của ông đề cập nhiều vấn đề , tuy khó được kiểm chứng, nhưng đáng để chúng ta quan tâm , chỉ chọn một vài chuyện để suy gẫm:

– Trung tướng Nguyễn Bình bị phục kích chết trong chuyến đi tù Nam Bộ ra Bắc báo cáo tình hình với TƯ. Ông bị sát hại ở một vùng núi trên đường đi . Sự kiện quan trọng đó, sau này người ta tìm hiểu, không có trong hồ sơ của Bộ Tổng Tham mưu quân đội viễn chinh Pháp (nghĩa là không phải Pháp giết). Khi quân đội miền Bắc đánh chiếm được Bộ TTM quân đội Sài gòn, hồ sơ lưu trữ cũng không hề có một dòng nào nói về vụ việc này, mà lẽ ra 2 quân đội Pháp – Mỹ, nếu họ làm, nhất định đều phải có, ghi lại, lưu trữ .

Vậy ai giết Trung Tướng Nguyễn Bình ?

Và còn nhiều nghi vấn khác nữa…

Riêng về tướng Giáp, thu hút sự chú ý của tôi, ông kể:

Khi cách mạng tháng 8 năm 1945 nổ ra, thành công, hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lúc này vẫn đang nằm trong xà lim’’chuồng cọp’’ ở Côn Đảo. Các ông vui mừng và chờ đợi đất liền cho tầu ra đón. Thế nhưng, chẳng hiểu vì sao (…) mãi gần hai chục ngày sau mới họ mới được về.

Khi về đến đát liên, Lê Đức Thọ do TƯ phân công làm công tác Đảng, còn Lê Duẩn được Võ Nguyên Giáp – phân công làm Cục trưởng cục Dân quân – một cái cục thấp – bé nhất trong Bộ quốc phòng, một chức danh chỉ giành cho người’’ngồi chơi sơi nươc’’. Dư luận chính trường bất ngờ trong khi ông LD thực sự có tài, có uy tín, nhiều năm hoạt động trên địa bàn miền Nam… Cuộc phân công đó, dưới mắt dư luận ’’thật khó coi’’, không thể không gây cho các đối tượng sự bức xúc…

Chưa hết, những chiến hữu thân cận, tài năng dưới quyên các ông như Tô Ký, Huỳnh Văn Nghệ…đều chỉ được phong các chức danh’’khiêm tốn’’(mãi sau Tô Ký mới có hàm Thiếu tướng, Huỳnh Văn Nghệ hàm Thượng tá…). Trước những đối xử như vậy, 2 ông kiên quyết xin được trở lại miền Nam’’nằm vùng’’, chuẩn bị cho một cuộc chiến mới : Tạo thế hợp pháp để đấu tranh (vì hiệp định Geneve) bằng cách đưa ông Lê Duẩn ra tranh cử TT với ông Ngô Đình Diệm…

Sự việc không thành, ông LD phải rút vào hoạt động bí mật. Trong thời gian đó, ông đã nghiên cứu vạch ra chiến lược cho cách mạng miên Nam rồi gửi ra TƯ bản báo cáo quan trọng, xác định rõ: Muốn thống nhất đất nước, không có con đường nào khác là – Phải chuẩn bị, phát động nhân dân cả nước tiến hành đấu tranh vũ trang mà trực tiếp, trực diện là nhân dân miền Nam , còn miền Bắc sẽ là hậu phương vững chắc cho trận chiến này. BCT có người còn phân vân… riêng cụ Hồ – trong tư cách là Chủ tịch đảng – hoàn toàn đồng ý với báo cáo của 2 ông Duẩn – Tho, quyết định triệu tập ĐH Đảng CS Việt nam lần thứ 3 (sau ĐH3 đổi tên thành đảng Lao Động Việt Nam), nhằm đi đến thống nhất chủ trương này bằng nghị quyết làm kim chỉ nam cho mọi hành động đi đến thống nhất đất nước, thự hiện ý tưởng của cụ Hồ (trong lần ốm nặng):’’Dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc’’.

—————————————————-

Đại Hội ĐCSVN lần thứ 3 (ĐH3 – tên mới Đảng LĐVN)) được triệu tập trong bối cảnh đặc biệt :

– Miền Bắc vừa trải qua’’cơn gió độc’’ Cải cách ruộng đất, lòng dân li tán, uy tín của Đảng – Chính quyền suy giảm, nền kinh tế đang củng cố, chua kịp phát triển, nông nghiệp suy xụp.

– Ê kíp lãnh đạo (Cụ Hồ, TBT Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp…) vừa phải kiểm điểm trách nhiệm đã để xẩy ra vụ Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), một số nhận án kỉ luật. TBT Trường Chinh phải từ chức…

– Cần người có kinh nghiệm đảm trách việc đôn đốc thực hiện NQ ĐH3. Dưới cái nhìn hẹp hòi, cục bộ của phe Chinh – Giáp (phe bảo thủ miền Bắc, theo TQ) đối với phe cách tân (miền Nam) Duẩn – Thọ. Việc chọn một ê kí lãnh đạo mới thật khó khăn, nhưng Chủ tịch đảng Hồ Chí Minh đã dùng uy tín, quyền lực của mình gạt mọi ý kiến bất đồng (và cả chống đối), ép : Chọn ê kíp Lê Duẩn – Lê Đức Tho lãnh đạo Đảng và chính quyền, Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư, Lê Đức Thọ làm Trưởng ban Tổ Chức TƯ – một ban vô cùng quan trọng để duy trì quyền lực của ê kíp (sau này, suốt 26 năm 1960 – 1986) BTC TƯ đã chứng tỏ uy lực đó! Chọn, giữ lại Phạm Văn Đồng – nhân vật’’ba phải’’ của ê kíp cũ – làm thủ tướng để dễ sai khiến…

Tuy ý kiến của chủ tịch đảng HCM đã rõ ràng, nhưng cả phe cánh đối thủ vẫn chống đối kịch liệt. Chiêu cuối cùng của đối thủ là : Dựa vào điều lệ đảng mà 2 ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đều vi phạm : Cả hai ông đều đã có vợ rồi, vẫn lấy 2 cô học sinh trẻ làm vợ thứ 2. Đến chiêu này thì hai ông Duẩn – Thọ không còn cách biện báo. Chiêu phản kích cuối cùng khá độc, nhằm ngăn trở họ không được bầu làm TBT và TBTCTUW.

Vì đã xác định người có khả năng giúp mình’’ đốt cháy Trương Sơn…’’ chủ tịch đảng phải ra tay, dút điểm: Trong phiên họp cuối cùng chọn nhân sụ trước khi đại hội bắt đầu, Chủ tịch Đảng phải dùng quyền phủ quyết…và tuyên bố gay gắt, đại ý: Trong số các đồng chí lãnh đạo chủ chốt ở đây, không có ai đã đi đến miền Nam, lại càng không hiểu biết địa bàn chiến trường miền Nam. Chỉ có 2 đồng chí Lê Duẩn , Lê Đức Thọ đáp ứng được yêu cầu này. Nếu chúng ta muốn thống nhất đất nước, chỉ có 2 người này mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Một số khuyết điểm có tính chất sinh hoạt của họ đã xẩy ra trước đây, chúng ta châm chước, cho qua, từ nay về sau, ai vi phạm sẽ bị kỉ luật nặng.

Thời bấy giờ uy tín của Chủ tịch Đảng rất cao nên sau ý kiến của HCM, đại hội Đảng CSVN đã bầu Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư.

Nhưng cũng phải mất 7 năm sau (1960 – 1967), ê kíp Duẩn – Thọ mới bắt đầu’’tính sổ – cả vốn lẫn lai’’ với Võ Nguyên Giap bằng bản nghị quyết ’’Chống xét lại hiện đại – NQ9/khóa 3’’. Ông bị quy cho là ‚’’đầu sỏ xét lại, tay sai của N. Khơ rut sốp’’, điển hình là cho giải ngũ 8 vạn binh sĩ năm 1958, trong khi thực chất chỉ là thay quân già, yêu băng lớp trẻ qua Luật nghĩa vụ quân sự. Kèm theo sau đó, hàng loạt cán bộ trung kiên của Tổng Tư Lệnh bị bắt, truất chúc…Điển hình là vu: Trong một đêm nhiều cán bộ chủ chốt của Cục tác chiến và những thân cận của tướng Giáp trong bộ Quốc phòng bị bắt. Ông TTL bị chặt hết chân tay… cuộc đời ông đi xuống bắt đầu thể hiện rõ từ đây và thê thảm hơn nữa vào các năm sau này…

Khi tiến hành chiến dịch Tổng tiến công giải phóng miên Nam, ông Giáp hoàn toàn đứn ngoài, chức TTL chỉ là cái danh, thực chất do các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chỉ huy tướng Văn Tiến Dũng và ê kíp tiến hành (điều này được tướng VTD viết lại trong hồi kí Đại thắng mùa xuân 1975, đăng nhiều kì trên báo QĐND).

LD, LĐT chơi đối thủ sat ván : Hạ nhục, kích thích lòng tự ái, tự trọng để nếu ông không chịu được’’bật lò so’’…họ có cớ hủy diệt! Cũng may, ông Giáp là người giảng dậy sử học, đã bình tĩnh vượt qua cơn sóng gió này, cũng như ông đã từng kiên nhẫn không rơi vào bẫy của Mỹ trong ’’Sự kiên Vịnh bắc bộ – 1965’’ để tiếp tục tồn tại cho đến hôm nay ! (Trường họp hủy diệt Trần Xuân Bách lại rơi vào hoàn cảnh khác, có dip chúng ta sẽ bàn sau…).

Thế đấy ! Có Nhân tất có Quả, nhân nào thì quả ấy !

’’Chả ai nắm được tay từ chập tối đến sáng’’.

’’Chú khi nay anh khi khác’’ – những lời răn dạy của tiền nhân này, nếu vẫn vang vọng trong lòng, chắc chắn sẽ giúp cho những người lãnh đạo nhiều bài học bổ ich : Khi có Quyền – Thế – Tiền , đừng vội cạn tầu ráo máng vói nhau, vơi người dưới. Hãy để cho mình một lối đi dù là nhỏ nhất, đề phòng khi có biến còn có đường thoát.

Võ Nguyên Giáp là tấm gương sáng cho hậu thế soi chung về nhiều mặt nhất là vinh quang. Những thất bại trong cuộc đời ông cũng đáng để chúng ta suy gẫm, rút ra bài học từ những lỗi lầm’’chết người’’ mà ông phạm phải. Chỉ nhìn thấy vinh quang, vuốt đuôi, tuyên truyền một chiêu, thái quá – chỉ làm hại thế hệ trẻ hôm nay và mai sau !

TRẦN GIA LẠC

 

Điều đáng lưu tâm nhất qua việc ông Võ Nguyên Giáp từ trần

Mấy ngày nay, người Việt khắp thế giới xôn xao bàn luận về việc từ trần của ông Võ Nguyên Giáp, người đúng đầu quân đội Việt Nam thời chống Pháp và, 1 phần trong thời chống Mỹ. Hầu như có 2 phe rõ rệt, nhắm vào 2 mục đích khác nhau : phe thứ nhất, tán dương công trạng của ông Giáp, và phe thứ 2 phủ nhận công trạng và tố cáo ông Giáp cùng chế độ Cộng Sản tại Việt Nam hiện nay. Tôi cho rằng cả 2 điều này không đáng lưu tâm lắm. Điều đáng lưu tâm hơn là qua việc ông Giáp từ trần, chúng ta lại có dịp chứng kiến sự u mê của rất đông người Việt, vì chính cái sự u mê này mà người Việt mới bị cai trị bởi Cộng Sản và xem ra thoát khỏi nó vẫn là chuyện xa vời.

Báo chí tại Việt Nam hiện nay tràn ngập thông tin về ông Võ Nguyên Giáp, tất cả đều tôn vinh ông, mà bài nào cũng hao hao nhau, chẳng có bài nào chỉ ra những cái mới mà trước đây họ chưa đề cập. Về nhận định của nước ngoài vẫn thế, cũng là những cái họ đã đề cập rất nhiều lần rồi. Một số có đề cập đến những tin tức nước ngoài hay nhận định về ông Võ Nguyên Giáp khi ông từ trần thì cũng thế, vẫn cắt gọt, tốt thì nói thêm, xấu thì xóa hẳn, và những từ ngữ có cánh, lịch sự của người phát biểu giành cho người vừa nằm xuống, như họ vẫn thường làm cho nhiều người khác chứ không riêng gì ông Giáp. Tóm lại là chẳng có gì mới.

Báo chí “lề trái” cũng chẳng khác hơn. Họ chỉ đăng tải những gì họ đã nói trước đây, về cái xấu của ông Võ Nguyên Giáp, về đảng Cộng Sản Việt Nam, về chính phủ Việt Nam, trong quá khứ và hiện tại. Cả 2 chỉ là những băng cũ được quay lại.

Phần tôi lưu tâm hơn mà thiết nghĩ cần phân tích kỹ là phản ứng của người dân tại tại Việt Nam trước cái chết của ông, qua các phản hồi trên báo Việt Nam và cộng đồng mạng như các blogers và facebook. Tôi cho rằng phần đông những phản hồi trên là thực sự của người đọc chứ không phải ngụy tạo. Và những phản hồi đó thể hiện suy nghĩ thực của họ chứ không phải phản hồi vì miếng cơm manh áo. Rất nhiều người Việt Nam tôn vinh ông Võ Nguyên Giáp như 1 thiên tài quân sự của thế giới, một kẻ đức hạnh vẹn toàn, và không ít người đã nhỏ lệ vị ông. Tôi tôn trọng tình cảm họ dành cho người vừa khuất, nhưng điều này có liên quan đến vận mệnh quốc gia, chứ không phải là vấn đề cá nhân, nên phải nói rằng họ chỉ là những kẻ mu muội. Họ không phải là những kẻ giả dối, chỉ là mu muội.

Cách đây khoảng vài ba năm, nhà độc tài ở Bắc Hàn, Kim Jong-il, đã từ trần, chính quyền Bắc Hàn tổ chức tang lễ rất lớn, với rất nhiều cảnh quay người dân Bắc Hàn khóc vật vã cho nhà lãnh đạo này. Lúc ấy chính quyền Bắc Hàn cũng tô vẽ ông ấy bằng mọi cách và dĩ nhiên không thế thiếu những trích dẫn những nhận định của thế giới về ông, như Việt Nam đang làm. Vì thế tôi cho rằng phần đông người dân Bắc Hàn khóc do cái tâm của họ đối với nhà ông Kim Jong-il. Đối với họ, ông ấy là một thiên tài, một người đã cứu họ khỏi cảnh lầm than, một người tài đức vẹn toàn mà cả thế giới phải nghiêng mình kính phục. Họ đã khóc vì họ nghĩ thế, còn người lãnh đạo ấy có thực sự như họ nghĩ hay không lại là chuyện khác.

Điều buồn cười là lúc ấy người dân Việt Nam, những người đang khóc cho ông Võ Nguyên Giáp, trên các cộng đồng mạng và cả báo chí đều cho rằng : thật tội nghiệp người dân Bắc Hàn, bị nhồi sọ kỹ quá để rồi đi khóc thương vật vã cho 1 kẻ độc tài gian ác. Họ quên mất rằng trước đó không lâu, chính họ cũng đã khóc thương ông Hồ Chí Minh một cách mù quáng, và hôm nay họ cũng khóc thương ông Võ Nguyên Giáp như thế.

Chắc chắn họ sẽ phản ứng : không thể so sánh ông Kim Jong-il với đại tướng VNG của chúng ta được và càng không thể so sánh chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh là những nhân vật ở tầm thế giới, biết bao chính khách năm châu nghiêng minh kính phục, ông Kim Jong-il chỉ là kẻ gặp thời, nếu không có Liên Xô và Trung Quốc chống lưng, chẳng biết ông Kim Jong-il có thể sống quá 30 tưổi hay không, chứ nói gì đến chuyện lãnh đạo tài ba. Chuyện thế giới tôn vinh ông Kim Jong-il là sự nhào nặn, chế biến, hay có 1 thì thêm 10, dở 10 thì bỏ hết, của nhà cầm quyền Bắc Hàn. Do đó, dân Việt ta thương khóc Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh là đúng, còn dân Bắc Hàn thương khóc ông Kim Jong-il là do mu muội, dọ bị tuyên truyền, do bị tẩy não.

Nói thế chứ họ không nghĩ rằng người dân Bắc Hàn cũng có thể có nhận định tương tự, chỉ là đánh tráo nhân vật. Người dân Bắc Hàn cũng có thể nói : không thể so nhánh Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh với lãnh tụ Kim Jong-il của chúng ta được. Lãnh tụ của chúng ta được biết bao chính khách năm châu kính phục vì đã 1 mình chặn đứng sự bành trướng của 1 đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, còn Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh chẳng qua là được Liên Xô và Trung Quốc chống lưng, nếu không thì đã chôn thây ở hang Pắc Bó từ lâu rồi. Chuyện thế giới tôn vinh ông Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh là sự nhào nặn, chế biến, hay thì có 1 thêm 10, dở thì có 10 thì bỏ hết, của nhà cầm quyền Việt Nam. Do đó dân Bắc Hàn ta thuơng khóc lãnh tụ Kim Jong-il là đúng, còn người dân Việt Nam thương khóc Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh chỉ vì bị tẩy não mà thôi.

Đó chính là sự mu muội của cả 2 bên. Cũng như người say rượu, họ không biết mình đang say, và lại thường bảo người khác say.

Nguyên nhân chính của sự mu muội của người dân tại Việt Nam là do chính sách tuyên truyền của chính quyền Cộng Sản Việt Nam hoạt động quá tích cực. Ngoài ra, có 1 nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là do tinh thần AQ của người Việt quá lớn (tôi đã đề cập ở phần “Người Mỹ – Người Việt”). Họ dễ dàng tin, hoặc thích tin, những gì làm cho họ có vẻ oai phong, nhằm che dấu cái bản chất bần hèn của mình. Và khi đã được khoác vào chiếc áo oai phong, họ không muốn, hoặc không thể, có tư duy độc lập, suy nghĩ sáng suốt, vì như thế có thể làm cái áo oai phong của họ bay mất.

Tôi đã có nhận định về ông Hồ Chí Minh, ở đây chỉ muốn có vài nhận định, không đi vào chi tiết, nói về cái tầm thực sự của ông Võ Nguyên Giáp.

Theo tôi, nói về đức, ông Giáp là 1 trong số khá hiếm hoi trong lãnh đạo chính quyền Cộng Sản Việt Nam không vướng vào những trò ô trọc. Đồng thời, khác với các nhà lãnh đạo khác như ông Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, ông Giáp là người có học thức, qua trường lớp hẳn hoi. Và có lẽ nhờ tính tự trọng của một nhà trí thức, ông đã xử sự chừng mực, tránh những trò tiểu nhân mà các “đồng chí” của ông không ngại sử dụng trong các cuộc xung đột ở cung đình.

Tuy nhiên, xét kỹ ngọn ngành thì cái đức của ông cũng không phải là hoàn hảo. Ông là 1 tướng lãnh, đứng đầu quân đội, nhưng ông đã lạm dụng sinh mạng binh sĩ. Ông đặt nặng thành tích mà coi nhẹ sinh mạng binh sĩ dưới quyền ông. Trong chiến tranh, hy sinh là chuyện không thể tránh khỏi, nhưng với những tướng lãnh có luơng tri, sinh mạng của binh sĩ phải được đặt lên hàng đầu, phải hạn chế tối đa. Với những chiến lược, chiến thuật khác nhau, người tướng lãnh có thể thực hiện những chiến công với số thương vong của binh sĩ ở mức ít nhất. Phần ông Võ Nguyên Giáp, thì chiến thuật biển người thường xuyên được áp dụng và với chiến thuật ấy, có thể chiến thắng đấy, những thiệt hại về binh sĩ không hề được lưu tâm đúng mức.

Ông Võ Nguyên Giáp phải coi thường sinh mạng binh sĩ, một phần vì hỏa lực của Mỹ quá mạnh, vũ khí quá tối tân, nhưng tôi nghĩ phần chính là cái tài của ông không đủ. Chiến tranh du kích thì chỉ có thể quấy rối, làm suy yếu tinh thần đối phương, còn muốn chiến thắng thì rồi cuối cùng cũng phải đối đầu trực tiếp ngoài trận địa mà ông lại không có thực tài trong lãnh vực này.

Ngoài ra ông cũng có những tính toán quân sự sai lầm khác, cụ thể là chiến dịch tết Mậu Thân 1968, với số binh sĩ thương vong lên đến cả 100 ngàn. Ông đã bị mất ảnh hưởng nặng nề trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam sau thất bại này, và bị thay thế bằng ông Văn Tiến Dũng. Có thể nói thành công lớn nhất của ông Võ Nguyên Giáp là trận Điện Biên Phủ. Nhưng, theo tôi trận này mang tính lịch sử, Việt Nam và thế giới, nhiều hơn là nơi phô diễn tài năng quân sự của ông Giáp, mà cụ thể là số thương vong rất lớn của lính Việt trong trận này.

Một nhà quân sự học đã nói “Một tướng tài là người cầm quân giành được chiến thắng, với số thương vong ít nhất của cả 2 phía”. Với tiêu chuẩn này thì ông Giáp ở dưới mức trung bình quá xa, vì số thương vong của binh sĩ của ông trên các trận địa quá lớn, chứ chưa nói đến phía đối phương.

Ông Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò rất lớn trong lịch sự hiện đại của Việt Nam, nhưng xét về tài năng quân sự mà báo chí Việt Nam đang tung hô, cũng như dân chúng Việt Nam đang ca ngợi, thì chỉ là trò đãi bôi. Ở tầm thế giới, ông ở dưói mức trung bình, ở tầm Quốc Gia ông trên trung mình chút ít, nhưng ông thua người kế nhiệm là Văn Tiến Dũng, và so với một số tướng lĩnh miền Nam Việt Nam, ông cũng không hơn họ.

Tuy nhiên, điều đó đã là quá khứ, không còn quan trọng nữa. Điều quan trọng trong việc này là sự mu muội của người dân trong quá trình phát triển xã hội, để đi đến một đất nước văn minh, một quốc gia pháp trị. Hơn 50 năm nay, từ thời ông Hồ Chí Minh, họ vẫn tôn thờ các nhà lãnh đạo một cách mù quáng như thế. Chuyện chẳng gì khó khăn lắm, thậm chí có cái chết của lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il để so sánh, thế mà họ còn không tỉnh ngộ, thì cái chuyện hiểu thấu đáo khái niệm dân chủ, tinh thần pháp trị, hẳn còn lắm gian nan.

ĐINH NGHỆ AN 

Ai thống trị Việt Nam ngày nay: Đảng Cộng sản hay là Hán Ngụy?

Có một tổ chức hiện nay cai trị Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau như là vua chúa Phong kiến ở Tàu hay ở Âu châu thời Trung cổ . Một bộ máy võ trang tập trung các quyền hành lớn trong tay; không được dân bầu lên, và dân tuyệt đối không có quyền kiểm soát hay phê bình. Tổ chức này mang tên là “Đảng Cộng Sản Việt Nam”.

Nhưng, thực sự, tổ chức nầy có phải là một Đảng đúng nghĩa của một đảng hay không?

Đáng lẽ ra một Đảng chánh trị phải có một chánh nghĩa, một sức mạnh do một lý tưởng, một nền tảng triết lý hay lý thuyết, một khuynh hướng thể hiện nguyện vọng của đảng viên để hành động nhằm phục vụ đất nước và dân tộc
của mình.

Vì vậy, nếu cái gọi là Đảng Cộng Sản mà không phải là một Đảng đúng nghĩa, thì bộ máy đó là cái gi?

Một tập thể những người có chung một chí hướng tôn thờ người ngoài, một công ty làm ăn, một tổ chức mafia khai thác thị trường đất nước của họ chăng?

Như vậy chúng ta có vài tiêu chuẩn để đánh giá cái gọi là Đảng Cộng Sản bây giờ, đó là một đảng phái hay chỉ là một bọn làm ăn thiếu lương thiện?

Tôi đồng ý đã có thời gian cái goi là đảng Cộng Sản ngày nay có những hoạt động như là đảng phái đúng nghĩa. Nhưng những hoạt động ấy tốt xấu, hay dở, có lợi hay có hại cho đất nước Việt nam là chuyện khác .Tôi nói đó là một “thứ đảng phái” vì lúc ấy đảng Cộng Sản theo ý thức hệ Mác-Lê, vận dụng chủ thuyết mác-lê làm cách mạng võ trang cướp chánh quyền thực dân. Tiếp theo, đảng cộng sản phát động cuộc cách mạng xã hội, tiến hành giai cấp đấu tranh, đấu tố địa điền chủ, ám sát công chức, trí thức, lãnh đạo tôn giáo, tịch thâu tài sản của người giàu có để sau cùng đưa giới lao động, những tên du thủ du thực, lên cầm quyền và khi vào Bộ chánh trị, lại lãnh đạo đất nước, dân tộc. Hành động của đảng cộng sản lúc đó có mục đích thi hành “chính nghĩa xã hội chủ nghĩa ” theo ý hệ
Mác-Lê.

Nhưng từ lâu lắm rồi, cái gọi là đảng Cộng Sản không còn giống như trước đó nữa. Nó đã hoàn toàn biến chất để trở thành một cái gì khác hẳn. Tức nó không phải cộng sản, không mang nội dung mác-lê, không chủ trương giai cấp đấu tranh để tiến lên xã hội công bằng, người không bốc lột người, như kinh điển mác-lê dạy người cộng sản.

Cách đây vài năm, ông Đặng Quốc Bảo, Khoa giáo trung ương, trong một báo cáo phổ biến hạn chế cho đảng viên cao cấp, nói rằng “hiện tại đảng Cộng Sản không còn chính nghĩa chút nào vì thuyết Mác-Lê lỗi thời và cũng không đúng, không khoa học”. Theo ông Bảo, thì đảng cộng sản không nên áp dụng thuyết ấy nữa. Hai ông Mác và Lê đã nghĩ sai về vũ trụ, về trời đất, về đời sống nhân loại. Vậy người thông minh phải vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê.

Nếu ông Bảo đánh giá lý thuyết Mác-Lê đúng, thì đảng Cộng Sản không có một chính nghĩa nào để vẫn khẳng định tiếp tục đưa Việt nam đi theo con đường của mác-lê.

Vậy đảng cộng sản là cái gì? Chỉ là một tập hợp những người đầy tham vọng và quyền lực. Họ không khác gì một thứ giặc cướp đối với nhân dân.

Ông Bảo nói thêm rằng “ tổ chức anh chị em cán bộ phải giử quyền cai trị Việt nam vài năm nữa, vì nếu không có một lực lượng mạnh giử ổn định chính trị xã hội, thì nước sẽ loạn và dân sẽ khổ ”.

Lấy sự ổn định làm chính nghĩa của mình không có ý nghĩa tốt đẹp vì hoàn toàn thiếu thuyết phục. Chính nghĩa ổn định, nhiều người bình thường có thể nói và thi hành. Cần gì phải có cái gọi là đảng Cộng Sản với 3 triệu đảng viên, với vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước và xã hội ? Quân Đội làm được. Phật Giáo làm được. Việt Quốc làm được. Ai cũng hy vọng làm được. Cái gọi là đảng Cộng Sản không thể tự cho là chỉ có họ mới làm được.

Theo tuyên truyền của đảng cộng sản, trong quá khứ, họ có công đức lớn để đứng trên và trước mọi người khác. Tức họ cho rằng họ có vai trò lịch sử Có đúng như vậy không?

Để trả lời, giờ đây, Bộ Chính Trị hãy tổ chức gọi hồn các đồng chí của họ đã chết, chết vì hi sinh hay chết oan vì đảng cũng được, để hỏi công việc đảng làm. Rồi, có lẽ họ nên gọi hồn để hỏi cái gọi là đảng cộng sản thật sự có công đức với dân tộc Việt Nam hay không? Rồi, họ có thể gọi hồn để hỏi đảng cộng sản tại sao ngày nay vẫn nói đi theo mác-lê, mà trên thực tế không thấy xã hội việt nam chuyển biến theo mô hình” chính nghĩa Mác-Lê.” một chút nào nữa. Vậy thì cái đảng này nên tự giải tán, và có mang tội với đất nưóc, với dân tộc không?

Chúng tôi cũng có thể gọi hồn như Bộ Chính Trị. Chúng tôi có thể gọi hồn các vị cũng nằm xuống, vì nhiều lý do khác nhau, hỏi họ về công đức của cái gọi là đảng Cộng Sản.

Thí dụ, hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, hỏi ông Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng , ông Lý Đông A, Thư ký trưởng Đảng Duy Dân, các nhân sĩ yêu nước Ngô Đình Khôi, Nguyễn văn Bông, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Hồ văn Ngà, Phan văn Hùm, Nguyễn văn Sâm, … và những người dân Huế chết hồi Tết Mậu Thân, vân, vân, … cho đến 1 ,2 triệu người Việt nam bình thường khác, chết trên biển cả, trong rừng sâu, trong các trại tù rải rác khắp cả nước.

Gọi hồn tất cả những người này về và lắng tai nghe họ nói số phận của dân tộc Việt Nam từ khi Đảng Cộng Sản vận dụng “chính nghĩa Mác-Lê” để cướp lấy quyền lãnh đạo đất nước và giử độc tôn cho đảng .

Xin trả lời: Công đức ở đâu?

Bằng chứng thứ hai cho thấy cái gọi là đảng Cộng Sản là một đảngthì đảng ấy có hành động cụ thể như thế nào?

Ngoài sự hiểu biết, sự suy nghĩ, sự tính toán của con người, các hành động của người đó phải cho chúng ta thấy rõ, một cách minh bạch, để kết luận người đó tốt hay xấu, giỏi hay dở, đạo đức hay gian ác, cần tồn tại hay nên vứt
đi thôi ?

Cái gọi là đảng Cộng Sản đó, cách đây 8 năm, đã tự động hiến dâng đất đai của tổ tiên để lại cho Bắc Triều mới . Và cả biển nữa! Tại sao?

Để đáp ứng sự đòi hỏi của Bắc Triều mới? Phải.

Ở điểm này, chúng ta hảy nhìn rõ. Cái gọi là đảng Cộng Sản đó vì nhu cầu tồn tại đã dâng đất, dâng biển cho Bắc kinh. Đây là nhu cầu sanh tử. Đảng cộng sản phải làm một việc tội lỗi như vậy chỉ vì đảng lo sợ nhân dân Việt nam hỏi tội của họ đối với tổ quốc và nhân dân từ trước đến giờ. Mà nhân dân hỏi tội có nghĩa là đảng sẽ bị mất quyền cai trị. Hoặc một vụ Thiên An Môn Việt Nam sẽ xảy ra . Trước nỗi ám ảnh mất quyền lực, đảng cộng sản cần sự ủng hộ, sự tiếp tay của Bắc Triều mới, mặc dầu có tổn hại đến quyền lợi tối thượng của Quốc gia.

Như vậy đảng cộng sản ở Hà nội không thể tự cho là một đảng có chính nghĩa yêu nước được, mà phải bị kết án là một đảng bán nước mới đúng.

Nếu đảng Cộng Sản Hà nội chuyên tâm phục vụ cho đòi hỏi, tham vọng của Bắc Triều mới, thì Việt nam tất nhiên phải lâm nguy làm thân nô lệ cho Hán Tộc. Nếu chỉ có riêng cái đảng cộng sản làm nô lệ hán tộc thì chúng ta hà tất phải tốn lời.

Thực tế ở Việt nam cho ta thấy công an, tình báo của Việt Nam đều do công an, tình báo Trung Quốc đào tạo và cố vấn. Nhờ đó mà công an, tình báo Hà nội mới có đủ bản lãnh đàn áp những người dân chủ ở Việt nam, đàn áp dân oan nạn nhân của những vụ đất đai bị đảng cộng sản tước đoạt, đàn áp những vụ biểu tìng chống Trung quốc xăm chiếm đất đai bằng vũ lực và thô bạo.

Nhìn lại lịch sử Việt nam thì từ thời Ngô Quyền đến nay, chỉ có vài nhà vua Việt nam theo Bắc Triều một cách xấu hổ như vậy. Có Nhà Mạc phải xin sự ủng hộ của Hoàng đế phương Bắc để đối phó với Nhà Lê. Có vua Lê Chiêu Thống xin Trung Quôc gởi binh qua Hà nội để đánh anh em Nhà Tây Sơn. Có vua Gia Long và Minh Mạng lấy y thức hệ Tống Nho của Nhà Thanh bên Tàu để làm nền tảng đạo lý xây dựng uy quyền cho Nhà Nguyễn . Nhưng các ông vua này không làm mất đất, mất biển vào tay ngoại bang chỉ vì quyền lợi riêng tư như đảng cộng sản ngày nay.

Cầu viện thường hay lệ thuộc tư tưởng của kẻ khác, khó tránh khỏi bị dẩn đến mất chánh nghĩa quốc gia. Phải chăng vì thế mà Nhà Mạc đã không thắng Nhà Lê, vua Lê Chiêu Thống thua Quang Trung Nguyẽn Huệ. Riêng Nhà Nguyễn vì chọn lựa sai lầm học thuyết lỗi thời mà cứ khăng khăng ôm giữ nên thua người Pháp. Tức
một thứ lệ thuộc tư tưởng. Khi có được chỗ dựa mạnh là Bắc kinh, cái gọi là đảng Cộng Sản sẽ đánh bại được toàn dân Việt nam chăng? Tức đảng cộng sản vỉnh viễn đàn áp, bốc lột nhân dân chăng?

Mới đây khi nghe tin Bắc Kinh tổ chức Hoàng Sa và Trường Sa trở thành môt đơn vị hành chánh mới trực thuôc Tỉnh Hải nam, lập tức xảy ra nhiều cuộc biểu tình của dân chúng thanh niên, sinh viên ở TP Hồ Chí Minh, ở Hà nội, chống chánh sách xăm lược của Trung Quốc. Cái gọi là Đảng Cộng Sản không dám lên tiếng phản đối kẻ cướp đất, trái lại thô bạo đàn áp dân chúng công khai bày tỏ lòng yêu nước. Khí thế của nhân dân Việt nam bây giờ làm cho đảng cộng sản Hà nội bắt đầu lo sợ. Nếu đảng cộng sản khôn ngoan thì hảy thấy ở đây, tức ở nhân dân, mới là chổ dựa vửng chắc hơn thế của Trung Quốc.

Nhưng cái gọi là Đảng Cộng Sản nghe theo ai?

Buồn mà nói. Vì nói cho đúng thì phải nói lớn và nói rỏ phe nhóm cai trị Việt Nam hiện nay là một bọn Hán Ngụy.

Tiếc vì chúng tôi biết chắc chắn có nhiều đảng viên của cái gọi là Đảng Cộng Sản không muốn như vậy. Họ thương dân, yêu nước thật lòng. Nhưng họ lo sợ, có thể vì bất lực, cho sự an nguy của bản thân và gia đình trước những
thủ đoạn khéo léo, gian ác, đê hèn của lực lượng Công An, Tình Báo đang có mặt khắp nơi rình rặp.

Bọn Hán Ngụy thật sự không có nhiều người, nhưng họ có thế mạnh và nhiều tiền bạc. Họ quyết tâm giữ quyền lực cai trị đất nước mãi mãi. Họ sẽ làm cái gì phải làm để không mất địa vị cầm quyền, tức quyền làm ăn, làm giàu của họ.

Lệ thuộc Bắc Kinh, đối với họ, là một giá phải trả, họ chấp nhận trả, để có phương tiện ổn định xã hội chính trị Việt nam, tức duy trì chế độ độc tài toàn trị. Ổn định là cho quyền lợi của họ. Đất nước đối với họ chỉ là phương tiện trao đổi.

Trung Quốc có một triết lý bình định thiên hạ từ đời Tần Thủy Hoàng. Ông ấy lấy ý kiến của phái Pháp Gia gồm lý thuyết âm dương, ngũ hành để kiến tạo thái hòa. Làm chính trị như vậy không theo sự giảng dạy của Khổng
Mạnh, trái lại, đưa ra chính sách đại đoàn kết, giữ phép nước dưới sự lãnh đạo đọc tôn theo một vị hoàng đế. Đó là thuyết của Mặc Địch.

Cái đạo chính trị này – “ hoàng đế chính thuyết ”– là lý thuyết xây dựng xã hội không cần nghe ý dân. Đi từ trên xuống, không phải từ dân lên. Ngày nay là tập trung dân chủ, tức dân chủ xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ chí minh. Hoàng Đế nghe trời, ra lịnh và thiên hạ phải tuân theo. Dân không nghe theo thì sẽ bị phạt, nặng nhẹ
tùy theo mức độ của sự phản bội, bất hiếu đối với chế độ.

Một ông Hoàng Đế không cần đức, không cần uy tín mà vẫn giữ được ổn định xã hội. Hiếu nghĩa thay thế nhân nghĩa. Cấp trên nói cái gì thì cấp dưới vâng dạ theo răm rắp. Nói vô phép, mất dạy, thì bị phạt, không được phần thưởng.

Đạo làm hoàng đế có mục đích lấy ý trời và qua cơ cấu hành chánh, ép thiên hạ vâng lịnh làm theo ý đó, mặc cho họ muốn hay không.

Trong lịch sử Việtnam, các Nhà Lý, Trần và Lê không lấy đạo Hoàng Đế của Bắc Triều để trị dân. Nhà Lý và Nhà Trần theo đạo Phật. Nhà Lê cho đến Vua Lê Thánh Tôn theo quan điểm nhân nghĩa do Nguyễn Trãi viết ra.

Vua Lê Thánh Tôn bắt đầu theo chủ nghĩa Bắc Triều , tức lấy Tống Nho bênh vực ngôi vị Hoàng Đế một cách mù quáng với đạo hiếu nghĩa cha mẹ, vua chúa. Đến Nhà Mạc, Chúa Trịnh, thì ảnh hưởng Tống Nho ở cấp quan văn và các đại gia đình quan chức mở rộng. Nhà Nguyễn áp dụng Tống Nho và quan điểm hoàng đế, đưa triều đình Huế đi theo gương Nhà Thanh bên Tàu.

Trước đây, cái gọi là đảng Cộng Sản chụp mũ những người Việt nam không Cộng Sản mà hợp tác với Mỹ Quốc để giữ độc lập cho miền Nam Việt Nam là “Mỹ Ngụy” .

Bây giờ, nhìn về quá khứ thì chúng ta có thể đánh giá ai có công lớn hơn cho Dân Tộc Việt nam: Mỹ Ngụy hồi đó hay Hán Ngụy bây giờ?

Người Mỹ khi họ giúp các Chính Phủ Việt nam Cộng Hòa, khi họ làm cố vấn cho Chính phủ và quân đội quốc gia, họ thật sự muốn gì? Họ khuyến khích người Quốc Gia làm gì? Họ đòi hỏi Chính Phủ Sài gòn có chính sách nào?

Nói chung, người Mỹ từ Tổng Thống Eisenhower cho đến Tổng Thống Nixon, từ Đại Sứ Elbridge Durbrow cho đến Đại Sứ Ellsworth Bunker, tất cả đều yêu cầu Chính Phủ Sài gòn lo cho dân, áp dụng chế độ hiến trị, tổ chức các cuộc bầu cử từ xã ấp đến trung ương, trong sạch, dân chủ, cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, mở rộng giáo dục theo tôn chỉ “nhân bản, khoa học, khai phóng ” …

Đối với Mỹ thì ý dân là hơn ý trời. Mỹ không bao giờ theo “ hoàng đế chính thuyết ”.

Như vậy làm Mỹ Ngụy là chọn phương pháp lo cho dân, cho quê hương Việt nam, cho văn hóa, đạo đức dân tộc. Người Mỹ đến Việt nam, không ở lại Việt nam. Và “dân ngụy.” không hiến dâng đất dai, biển cả cho ngoại bang. Hơn nữa, trong lịch sử, người Mỹ không làm thuộc địa, không làm Thái thú, chỉ làm bạn đồng minh giai đoạn.

Còn người Việt nào bây giờ làm Hán Ngụy thì phục vụ ai? Họ có lo sợ số phận Tổ quốc của họ không? Hay chỉ có chung một thứ Tập hợp những người cùng chí hướng tôn thờ quyền lợi bản thân mà thôi?

THEO Stephen B. YOUNG

 

Vụ án Dương Chí Dũng: Dư luận bàng hoàng, phẫn nộ

Đau xót ở chỗ biết rõ sai phạm nhưng mọi thủ tục về thông quan, nhập khẩu, thanh toán hợp đồng đều chót lọt

Kết luận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cục Cảnh sát điều tra tội phạm vềtham nhũng (Bộ Công an) về Vụ án “ụ nổi” tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) làm thiệt hại ngân sách Nhà nước gần 370 tỷ đồng đang khiến dư luận bàng hoàng, phẫn nộ.

Chuyện thật mà như đùa khi một ụ nổi to đùng lại chui lọt hàng loạt “cửa” cơ quan chức năng để về nằm chềnh ềnh hoen rỉ nhiều năm trời. Một ụ nổi hư hỏng hết, chỉ còn duy nhất một tác dụng là phá hoại môi trường đã được Vinalines “biến báo” ngoạn mục để phê duyệt mua về. Và đống sắt vụn đó đã phát huy đúng tác dụng của nó là tàn phá môi trường.

Câu chuyện này ngay từ đầu đã thể hiện rõ bản chất ly kỳ hiếm thấy. Đến tháng 10/2008 mới có quyết định phê duyệt dự án nhưng trước đó một năm rưỡi, Vinalines mà Dương Chí Dũng lúc đó là Chủ tịch HĐQT đã tổ chức đấu thầu, chào hàng cạnh tranh mua ụ nổi.

Nhưng chuyện hài hước không chỉ dừng lại ở đó, trong 3 ụ nổi được chào thầu, Vinalines chỉ “nhắm” tới ụ nổi 83M của Công ty AP (Singapore) “quá đát” 18 năm mà bỏ qua 2 ụ nổi khác tuổi đời trẻ hơn nhiều.

Để hợp thức hóa về mặt thủ tục, Vinalines đã cử một đoàn khảo sát có đại diện của Cục Đăng kiểm Việt Nam sang Liên bang Nga khảo sát tình trạng kỹ thuật của ụ nổi này. Sau khi biết rõ “tác dụng” chẳng để làm gì của ụ nổi 83M và cũng biết rõ Công ty AP chỉ là đơn vị trung gian chào bán không phải đợn vị sở hữu, Vinalines vẫn quyết định “chèo lái” kết quả khảo sát để mua bằng được món đồ “đồng nát” này, thêm nữa, nhất quyết không làm việc với chính chủ mà phải qua Công ty “cò”AP.

Ai đời, chủ sở hữu chỉ chào với giá chưa đến 5 triệu USD, mà “bộ sậu” Dương Chí Dũng lại có thể đưa “khống” lên tới 9 triệu USD, rồi cộng thêm tiền rước về, công sửa chữa, neo đậu, …định giá lúc đầu là 14,136 triệu USD, rồi lại “phóng tay” chốt thành 19,5 triệu USD. Đúng là chỉ có “tiền chùa” mới dễ dàng biến báo và “chặt gọn” êm như lông hồng đến vậy!

Đau xót ở chỗ biết rõ sai phạm nhưng mọi thủ tục về thông quan, nhập khẩu, thanh toán hợp đồng đều chót lọt. Kết luận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cục Cảnh sát điều tra tội phạm vềtham nhũng (Bộ Công an) cho thấy, tổng thiệt hại do các sai phạm tại Vinalines là gần 370 tỷ đồng.

Tuy nhiên, con số thiệt hại hàng trăm tỷ đồng này không phải là con số cuối cùng bởi những sai phạm đã dẫn đến hậu quả là dự án nhà máy bị phá sản giữa chừng, ụ nổi 83M không đưa vào hoạt động được vẫn “ngốn” thêm hàng triệu đô la tiền thuê cảng neo đậu, công trực sự cố, tiền lãi ngân hàng…và trở thành đống sắt rỉ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng không thể tính đếm được giá trị thiệt hại.

Do hào phóng “biếu không” cho “Cò” nước ngoài 4 triệu USD mà “bọn lâu la” Dương Chí Dũng được “lại quả” 1,66 triệu USD ( tương đương 32 tỷ VND). Số tiền này được chia chác theo thứ-bậc, công-trạng rõ ràng.Được 10 tỷ đồng, “vua” Dương Chí Dũng đã sủng ái tặng cho “phi tần” 2 căn hộ sang trọng, cao cấp vào bậc nhất tại thủ đô.

Câu chuyện ly kỳ, hài hước lại không hề viễn tưởng chút nào bởi thực tế vẫn sờ sờ ra đó cái ụ nổi hoành tráng không biết phải xử lý ra sao? Bởi để phá ra bán đồng nát cũng không dễ dàng, chắc chắn rằng nhà nước lại tiếp tục phải mất tiếp một khoản không nhỏ để xử lý cái đống sắt vụn 9 triệu USD này.

Cú “ném tiền qua cửa sổ” của Dương Chí Dũng và đồng bọn thật ngoạn mục! Qua vụ án này, dư luận không khỏi không đặt câu hỏi, sẽ còn bao nhiêu “Dương Chí Dũng” chưa bị lộ? Và một phần kết luận mà Bộ Công an vừa công bố đã làm sửng sốt, bàng hoàng dự luận đến vậy thì phần còn lại sẽ là những gì?

Kết luận thanh tra cũng đã rõ, tội trạng rồi cũng được luận định công khai, chỉ tiếc là số tiền thiệt hại khổng lồ thì không thể lấy lại được. Trong khi đất nước đang khó khăn, gánh nặng vào ngân sách ngày càng chật vật, phương án cắt giảm lương cho cán bộ, công chức cũng được đề xuất để giảm bớt bội chi, thì những vụ án tham ô, tham nhũng, lãng phí tiền của Nhà nước kinh khủng như vụ án Dương Chí Dũng vẫn xảy ra.

Lòng dân phẫn nộ khi bên cạnh những Dương Chí Dũng, còn có những đăng kiểm, hải quan tha hóa, biến chất, bị đồng tiền làm mờ mắt, chỉ tìm cách “vét cho đầy túi tham” phá hoại nền kinh tế đất nước. Lòng dân cũng mong muốn làm sao công tác giám sát, thanh tra phải chặt chẽ hơn, làm sớm hơn, đi trước một bước chứ không bị động chạy theo chuyện đã rồi./.

Theo VOV

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI

TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI

‘Thành phần chủ đạo’ của nền kinh tế đang vắt kiệt sức dân

Được coi là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế của đất nước, song nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN), mà đặc biệt là các tổng công ty đầu ngành, liên tiếp cho thấy những màn trình diễn tồi, không những không đóng góp thiết thực vào sự tăng trưởng kinh tế, mà còn gây thiệt hại lớn đến nguồn vốn ngân sách, và quyền lợi của người dân.

Trong cuộc họp báo chiều 17/10 chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội sắp khai mạc, ông Nguyễn Hạnh Phúc – Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội – đã trao đổi với báo giới về một số nội dung liên quan đến tiến độ của dự thảo Hiến pháp, trong đó, nội dung quy định vai trò các thành phần kinh tế trong dự thảo Hiến pháp nhận được sự quan tâm đặc biệt. Ông Phúc nhấn mạnh: “Đương nhiên kinh tế nhà nước phải chủ đạo, không thể để tư nhân làm chủ đạo, không thì ai lo an sinh xã hội. Còn các thành phần kinh tế thì bình đẳng, không phân biệt”.

Tuy nhiên, không hiểu sao kinh tế tư nhân lại bị lôi vào cuộc tranh giành ngôi vị này, khi trước nay ứng cử viên duy nhất vẫn là kinh tế nhà nước, mà các ý kiến chỉ xoay quanh việc yêu cầu cần có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tức là bỏ luôn cái khoản “chủ đạo” đi. Và kinh tế nhà nước chủ đạo thì có mối quan hệ gì tới việc “lo” cho an sinh xã hội?!

Trên thực tế, sau gần 1/4 thế kỷ kinh tế nhà nước làm chủ kể từ sau giai đoạn mở cửa, và gần 10 năm sau khi gia nhập WTO, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam lại lao đao hơn hiện tại. Và trong suốt hơn hai thập kỷ qua, nhận được vô vàn ưu ái từ chính sách, đặc biệt đối với khâu cấp vốn cho tới các hoạt động thị trường cùng những đảm bảo “vàng” – làm ăn thua lỗ đã có tập thể chịu, chưa một vị giám đốc DNNN nào chỉ vì quản lý yếu kém mà bị bỏ tù, kê biên tài sản – nên rất nhiều DNNN tiếp tục rơi và tình trạng thua lỗ và thất thoát triền miên với con số lũy kế theo năm lên tới cả chục ngàn tỷ đồng.

Cái sự dửng dưng mỗi khi ngân sách bị thất thoát khiến người ta có cảm giác như những cái “tàu há mồm” nuốt chửng từ hàng nghìn tỷ có thể đến hàng trăm nghìn tỷ đồng như Vinashin, Vinalines… chỉ “nhẹ bẫng” so với tổng thu ngân sách mỗi năm vài trăm ngàn tỷ đồng – từ tiền thuế của dân?! Rõ ràng, nhiều người không đau xót vì trong hàng ngàn tỷ đồng thua lỗ, hay còn được một số người vớt vát gọi trệch đi là “nợ xấu chưa thu hồi”, thì một vị Tổng Giám đốc như Dương Chí Dũng cũng phải bỏ túi không ít, và bộ sậu – ê kíp giúp cho Dũng thực hiện được hành vi tham ô – cũng nhận được một khoản rất có thể lớn hơn nhiều lần.

Điểm qua một số DNNN có “máu mặt” nhất, được xếp trong top 10 của 500 DNNN có doanh thu và quy mô vốn lớn nhất thị trường (theo VNR500-2012), có thể thấy những cái tên như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Than khoáng sản (Vinacomin), Ngân hàng NN&PTNN (Agribank)… Tuy nhiên, là ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất trong hệ thống tài chính của Việt Nam với mạng lưới chi nhánh dày đặc, nhưng Agribank cũng là một trong những doanh nghiệp làm ăn bết bát nhất với tỷ lệ nợ xấu luôn dẫn đầu, lên đến 6,14% (báo cáo đến ngày 30/6/2012 – Ngân hàng Nhà nước). Thậm chí, theo thông tin từ beforeitsnews.com, tính đến hết tháng 8/2013, nợ xấu của Agribank lên tới 33.500 tỷ đồng, vượt 13,1% so với 29.605 tỷ đồng vốn điều lệ!

Một đại diện khác cho DNNN cũng “lẫy lừng” không kém về khả năng làm ăn là EVN với khoản lỗ tính riêng cho năm 2010 là 8.416 tỷ đồng, năm 2011 là 8.000 tỷ đồng (lỗ lũy kế đến năm 2010 xấp xỉ 25.000 tỷ đồng). Chỉ sang năm 2012, EVN mới bất ngờ tuyên bố có lãi thông qua một lộ trình tăng giá điện dày đặc: Năm 2009, giá điện tăng 8,92%; năm 2010, tăng 6,8%; năm 2011, từ tháng 1-3, tăng 15,3%, tháng 12/2011, giá điện tăng lần hai 5%; tháng 07/2012, tăng thêm 5%, tháng 12/2012, giá điện tăng lần hai 5%; và từ 1/08/2013, giá điện tăng 5%. Chỉ nhìn vào tốc độ tăng giá sản phẩm bán cho dân của một doanh nghiệp được vận hành bằng tiền (thuế) của dân trong một thị trường độc quyền cũng có thể thấy, việc doanh nghiệp này “làm ăn có lãi” là hoàn toàn vô nghĩa, thậm chí đi ngược lại với quyền lợi của khách hàng – là người dân.

Trong khi đó, Viettel – một tập đoàn kinh tế Nhà nước nhưng được tổ chức và điều hành với đặc thù riêng của quân đội – được cho là doanh nghiệp làm ăn có lãi thực sự, song cũng đang dính tới không ít khoản đầu tư ngoài ngành – vốn bị xem chính là một trong các thành phần cấu thành nên “lỗ thủng” cho nhiều Tập đoàn nhà nước – trong lĩnh vực xây dựng (với Vinaconex), năng lượng (với EVN Quốc tế), tài chính (với Công ty Tài chính CP Vinaconex), sản xuất-chế biến (với Công ty CP Công nghiệp cao su Coecco)…

Một “ông lớn” khác là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) lại “chơi chiêu” với các cơ quan quản lý và người tiêu dùng. Theo báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2013 của tập đoàn này, 6 tháng đầu năm, lợi nhuận hợp nhất trước thuế thu nhập doanh nghiệp đạt 898 tỷ đồng. Lãi lớn, nhưng liên tục phát ra thị trường thông điệp thua lỗ, lãi ít, kể khổ để tiện bề tăng giá xăng dầu tùy hứng, Petrolimex đang đi ngược lại lợi ích của người tiêu dùng – những cổ đông lớn nhất của chính các DNNN mà trong đó có tập đoàn này. Chưa dừng ở đó, mặc dù có lãi, nhưng Petrolimex vẫn “xin” khất thuế, nợ thuế vào cuối năm nay. Với kiểu làm ăn “chày bửa” như vậy, khó có thể hy vọng những doanh nghiệp kiểu này đóng góp gì cho nền kinh tế, cho người dân.

Điểm qua một vài “ông anh cả” trong các tập đoàn Nhà nước, có thể thấy tình trạng làm ăn thua lỗ là phổ biến. Trong trường hợp có lãi, thì phần sinh lời người dân cũng không được hưởng bởi ngay cả khi có thặng dư thì các doanh nghiệp này vẫn tìm cách tăng giá bán sản phẩm: EVN tăng giá bán điện trung bình 2 năm /lần, Petrolimex tăng giá bán xăng 5 lần chỉ trong vòng 3 tháng năm 2013, Viettel/MobiFone/Vinaphone tăng cước 3G 2 lần trong 6 tháng… với lý do bù lỗ trước đó!

Không những phần đóng góp cho xã hội rất thấp, mà phần lấy đi lại nhiều khi các doanh nghiệp này luôn tìm cách “hưởng thụ” với lương và những ưu đãi cực lớn cho người trong ngành. Ví dụ, theo kết quả kiểm toán, lương bình quân công ty mẹ EVN năm 2010 là 13,7 triệu đồng/tháng, lương cán bộ văn phòng EVN bình quân 30 triệu đồng/tháng; lương bình quân nhân viên công ty mẹ của Petrolimex là 21 triệu đồng/tháng (kiểm toán 2011)… Chưa kể những hoạt động đầu tư để hưởng thụ theo bề nổi, bề chìm mới được Thanh tra Chính phủ công bố một phần như EVN xây biệt thự, chung cư, trung tâm thể thao, vui chơi… cho cán bộ tại hàng loạt dự án, mà theo lời biện hộ của lãnh đạo tập đoàn này là để “tái tạo sức lao động”. Kèm theo những cục lương “khủng” thì những công trình giải trí, thư giãn của EVN đang được người dân è cổ ra cõng bằng “giá điện khủng”.

Trước những bất cập kể trên, một tỷ lệ lớn các tập đoàn Nhà nước, các DNNN quả có đóng “vai trò chủ đạo” trong nền kinh tế, nhưng không thiên về hướng điều tiết, dẫn dắt thị trường và đóng góp cho sự tăng trưởng ổn định bền vững của nền kinh tế, cũng như phục vụ quyền lợi của người dân, mà đáng tiếc theo hướng ngược lại.

Trên thực tế, càng đẩy mạnh vai trò của DNNN lên bao nhiêu thì đặc quyền, đặc lợi cho nhóm đối tượng này càng tăng lên bấy nhiêu, và làm giảm sức cạnh tranh của chính các doanh nghiệp này, và đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân – vốn đóng góp tới 31,3% thuế cho ngân sách Nhà nước (2011) – bấy nhiêu. Trong khi đó, việc khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tận dụng được chất xám, lẫn nguồn lực tài chính tự nguyện trong dân bao nhiêu thì đầu tư cho các DNNN càng tăng thêm yếu tố rủi ro về vốn ngân sách bấy nhiêu.

Mặt khác, nguồn gốc của an sinh xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào vẫn là từ tiền đóng thuế và nộp bảo hiểm của người dân cũng như các thành phần kinh tế, được chính phủ điều tiết thông qua các chương trình, chính sách, chứ việc các tập đoàn kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cũng không quyết định đến an sinh xã hội, nếu chưa muốn nói ngược lại, với tình trạng lỗ và xin khất lần như vậy, chính bản thân DNNN lại là một trong những nguyên nhân không nhỏ gây “thủng” quỹ bảo hiểm.

THEO SỐNG MỚI

Vì sao Tướng Giáp bị trù dập đến ngắc ngoải?

Đây là câu hỏi suốt nhiều năm được dấu kín khiến bao nhiêu người cố tìm hiểu mà hầu như không có câu trả lời.

Mấy hôm trước, tình cờ tôi gặp lại một cán bộ cao cấp, về hưu. Thuộc lớp đàn em lại từng được tiếp xúc khi ông còn đương chức, anh em gặp lại, rất vui, rủ nhau ra Đảo gió uống mấy li. Có hơi men, câu chuyện thêm đậm đà. Ông nhìn tôi chăm chú dường như có điều gì muốn thổ lộ, ít giây sau, nói :

Mấy hôm nay báo’’các lề’’ tung hô tướng Giáp dữ quá, đám viếng, tang chỉ thua kém cụ Hồ chút ít !

Tôi chua kịp’’phụ họa’’, ông anh khà (sau khi nhấp ngụm), tiếp: Cậu có hiểu vì sao tướng Giáp bị hai ông Duẩn – Thọ làm cho sống dở chết dở, không?

Thấy đây là cơ hội tìm hiểu chuyện thâm cung bí sử của chốn cung đình, tôi hăng hái lên tiếng ngay: Em làm sao mà biết được. Chả cứ em, nhiều người cũng thắc mắc nhưng’’bặt vô âm tín’’. Đây là chuyện cấm kị mà.

– Cũng đúng, anh biết chuyện này, im lặng gần cả cuộc đời, đến giờ, cũng sắp xuống lỗ rồi, đành kể cho chú nghe để chú hiểu thêm chốn quan trường của chế độ cộng sản nó như thế nào. Câu nói cửa miệng của cụ Hồ: ’’Đoàn kết, thống nhất, đại đoàn kết’’, thực ra chỉ là khẩu hiệu, trên thực tế chính trường không hề có’’Đại đoàn kết’’.

Ông anh ngừng lại, tợp tiếp, gắp miếng nhắm, nhai, nuốt đoạn kể cho tôi nghe câu chuyện cuộc đời của một số’’vĩ nhân’’. Các sự kiện ông diễn giải trong câu chuyện gây cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tôi cho rằng, ông là người hiểu biết nội tình của đảng CSVN. Câu chuyện của ông đề cập nhiều vấn đề , tuy khó được kiểm chứng, nhưng đáng để chúng ta quan tâm , chỉ chọn một vài chuyện để suy gẫm:

– Trung tướng Nguyễn Bình bị phục kích chết trong chuyến đi tù Nam Bộ ra Bắc báo cáo tình hình với TƯ. Ông bị sát hại ở một vùng núi trên đường đi . Sự kiện quan trọng đó, sau này người ta tìm hiểu, không có trong hồ sơ của Bộ Tổng Tham mưu quân đội viễn chinh Pháp (nghĩa là không phải Pháp giết). Khi quân đội miền Bắc đánh chiếm được Bộ TTM quân đội Sài gòn, hồ sơ lưu trữ cũng không hề có một dòng nào nói về vụ việc này, mà lẽ ra 2 quân đội Pháp – Mỹ, nếu họ làm, nhất định đều phải có, ghi lại, lưu trữ .

Vậy ai giết Trung Tướng Nguyễn Bình ?

Và còn nhiều nghi vấn khác nữa…

Riêng về tướng Giáp, thu hút sự chú ý của tôi, ông kể:

Khi cách mạng tháng 8 năm 1945 nổ ra, thành công, hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lúc này vẫn đang nằm trong xà lim’’chuồng cọp’’ ở Côn Đảo. Các ông vui mừng và chờ đợi đất liền cho tầu ra đón. Thế nhưng, chẳng hiểu vì sao (…) mãi gần hai chục ngày sau mới họ mới được về.

Khi về đến đát liên, Lê Đức Thọ do TƯ phân công làm công tác Đảng, còn Lê Duẩn được Võ Nguyên Giáp – phân công làm Cục trưởng cục Dân quân – một cái cục thấp – bé nhất trong Bộ quốc phòng, một chức danh chỉ giành cho người’’ngồi chơi sơi nươc’’. Dư luận chính trường bất ngờ trong khi ông LD thực sự có tài, có uy tín, nhiều năm hoạt động trên địa bàn miền Nam… Cuộc phân công đó, dưới mắt dư luận ’’thật khó coi’’, không thể không gây cho các đối tượng sự bức xúc…

Chưa hết, những chiến hữu thân cận, tài năng dưới quyên các ông như Tô Ký, Huỳnh Văn Nghệ…đều chỉ được phong các chức danh’’khiêm tốn’’(mãi sau Tô Ký mới có hàm Thiếu tướng, Huỳnh Văn Nghệ hàm Thượng tá…). Trước những đối xử như vậy, 2 ông kiên quyết xin được trở lại miền Nam’’nằm vùng’’, chuẩn bị cho một cuộc chiến mới : Tạo thế hợp pháp để đấu tranh (vì hiệp định Geneve) bằng cách đưa ông Lê Duẩn ra tranh cử TT với ông Ngô Đình Diệm…

Sự việc không thành, ông LD phải rút vào hoạt động bí mật. Trong thời gian đó, ông đã nghiên cứu vạch ra chiến lược cho cách mạng miên Nam rồi gửi ra TƯ bản báo cáo quan trọng, xác định rõ: Muốn thống nhất đất nước, không có con đường nào khác là – Phải chuẩn bị, phát động nhân dân cả nước tiến hành đấu tranh vũ trang mà trực tiếp, trực diện là nhân dân miền Nam , còn miền Bắc sẽ là hậu phương vững chắc cho trận chiến này. BCT có người còn phân vân… riêng cụ Hồ – trong tư cách là Chủ tịch đảng – hoàn toàn đồng ý với báo cáo của 2 ông Duẩn – Tho, quyết định triệu tập ĐH Đảng CS Việt nam lần thứ 3 (sau ĐH3 đổi tên thành đảng Lao Động Việt Nam), nhằm đi đến thống nhất chủ trương này bằng nghị quyết làm kim chỉ nam cho mọi hành động đi đến thống nhất đất nước, thự hiện ý tưởng của cụ Hồ (trong lần ốm nặng):’’Dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc’’.

—————————————————-

Đại Hội ĐCSVN lần thứ 3 (ĐH3 – tên mới Đảng LĐVN)) được triệu tập trong bối cảnh đặc biệt :

– Miền Bắc vừa trải qua’’cơn gió độc’’ Cải cách ruộng đất, lòng dân li tán, uy tín của Đảng – Chính quyền suy giảm, nền kinh tế đang củng cố, chua kịp phát triển, nông nghiệp suy xụp.

– Ê kíp lãnh đạo (Cụ Hồ, TBT Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp…) vừa phải kiểm điểm trách nhiệm đã để xẩy ra vụ Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), một số nhận án kỉ luật. TBT Trường Chinh phải từ chức…

– Cần người có kinh nghiệm đảm trách việc đôn đốc thực hiện NQ ĐH3. Dưới cái nhìn hẹp hòi, cục bộ của phe Chinh – Giáp (phe bảo thủ miền Bắc, theo TQ) đối với phe cách tân (miền Nam) Duẩn – Thọ. Việc chọn một ê kí lãnh đạo mới thật khó khăn, nhưng Chủ tịch đảng Hồ Chí Minh đã dùng uy tín, quyền lực của mình gạt mọi ý kiến bất đồng (và cả chống đối), ép : Chọn ê kíp Lê Duẩn – Lê Đức Tho lãnh đạo Đảng và chính quyền, Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư, Lê Đức Thọ làm Trưởng ban Tổ Chức TƯ – một ban vô cùng quan trọng để duy trì quyền lực của ê kíp (sau này, suốt 26 năm 1960 – 1986) BTC TƯ đã chứng tỏ uy lực đó! Chọn, giữ lại Phạm Văn Đồng – nhân vật’’ba phải’’ của ê kíp cũ – làm thủ tướng để dễ sai khiến…

Tuy ý kiến của chủ tịch đảng HCM đã rõ ràng, nhưng cả phe cánh đối thủ vẫn chống đối kịch liệt. Chiêu cuối cùng của đối thủ là : Dựa vào điều lệ đảng mà 2 ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đều vi phạm : Cả hai ông đều đã có vợ rồi, vẫn lấy 2 cô học sinh trẻ làm vợ thứ 2. Đến chiêu này thì hai ông Duẩn – Thọ không còn cách biện báo. Chiêu phản kích cuối cùng khá độc, nhằm ngăn trở họ không được bầu làm TBT và TBTCTUW.

Vì đã xác định người có khả năng giúp mình’’ đốt cháy Trương Sơn…’’ chủ tịch đảng phải ra tay, dút điểm: Trong phiên họp cuối cùng chọn nhân sụ trước khi đại hội bắt đầu, Chủ tịch Đảng phải dùng quyền phủ quyết…và tuyên bố gay gắt, đại ý: Trong số các đồng chí lãnh đạo chủ chốt ở đây, không có ai đã đi đến miền Nam, lại càng không hiểu biết địa bàn chiến trường miền Nam. Chỉ có 2 đồng chí Lê Duẩn , Lê Đức Thọ đáp ứng được yêu cầu này. Nếu chúng ta muốn thống nhất đất nước, chỉ có 2 người này mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Một số khuyết điểm có tính chất sinh hoạt của họ đã xẩy ra trước đây, chúng ta châm chước, cho qua, từ nay về sau, ai vi phạm sẽ bị kỉ luật nặng.

Thời bấy giờ uy tín của Chủ tịch Đảng rất cao nên sau ý kiến của HCM, đại hội Đảng CSVN đã bầu Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư.

Nhưng cũng phải mất 7 năm sau (1960 – 1967), ê kíp Duẩn – Thọ mới bắt đầu’’tính sổ – cả vốn lẫn lai’’ với Võ Nguyên Giap bằng bản nghị quyết ’’Chống xét lại hiện đại – NQ9/khóa 3’’. Ông bị quy cho là ‚’’đầu sỏ xét lại, tay sai của N. Khơ rut sốp’’, điển hình là cho giải ngũ 8 vạn binh sĩ năm 1958, trong khi thực chất chỉ là thay quân già, yêu băng lớp trẻ qua Luật nghĩa vụ quân sự. Kèm theo sau đó, hàng loạt cán bộ trung kiên của Tổng Tư Lệnh bị bắt, truất chúc…Điển hình là vu: Trong một đêm nhiều cán bộ chủ chốt của Cục tác chiến và những thân cận của tướng Giáp trong bộ Quốc phòng bị bắt. Ông TTL bị chặt hết chân tay… cuộc đời ông đi xuống bắt đầu thể hiện rõ từ đây và thê thảm hơn nữa vào các năm sau này…

Khi tiến hành chiến dịch Tổng tiến công giải phóng miên Nam, ông Giáp hoàn toàn đứn ngoài, chức TTL chỉ là cái danh, thực chất do các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chỉ huy tướng Văn Tiến Dũng và ê kíp tiến hành (điều này được tướng VTD viết lại trong hồi kí Đại thắng mùa xuân 1975, đăng nhiều kì trên báo QĐND).

LD, LĐT chơi đối thủ sat ván : Hạ nhục, kích thích lòng tự ái, tự trọng để nếu ông không chịu được’’bật lò so’’…họ có cớ hủy diệt! Cũng may, ông Giáp là người giảng dậy sử học, đã bình tĩnh vượt qua cơn sóng gió này, cũng như ông đã từng kiên nhẫn không rơi vào bẫy của Mỹ trong ’’Sự kiên Vịnh bắc bộ – 1965’’ để tiếp tục tồn tại cho đến hôm nay ! (Trường họp hủy diệt Trần Xuân Bách lại rơi vào hoàn cảnh khác, có dip chúng ta sẽ bàn sau…).

Thế đấy ! Có Nhân tất có Quả, nhân nào thì quả ấy !

’’Chả ai nắm được tay từ chập tối đến sáng’’.

’’Chú khi nay anh khi khác’’ – những lời răn dạy của tiền nhân này, nếu vẫn vang vọng trong lòng, chắc chắn sẽ giúp cho những người lãnh đạo nhiều bài học bổ ich : Khi có Quyền – Thế – Tiền , đừng vội cạn tầu ráo máng vói nhau, vơi người dưới. Hãy để cho mình một lối đi dù là nhỏ nhất, đề phòng khi có biến còn có đường thoát.

Võ Nguyên Giáp là tấm gương sáng cho hậu thế soi chung về nhiều mặt nhất là vinh quang. Những thất bại trong cuộc đời ông cũng đáng để chúng ta suy gẫm, rút ra bài học từ những lỗi lầm’’chết người’’ mà ông phạm phải. Chỉ nhìn thấy vinh quang, vuốt đuôi, tuyên truyền một chiêu, thái quá – chỉ làm hại thế hệ trẻ hôm nay và mai sau !

TRẦN GIA LẠC

 

Điều đáng lưu tâm nhất qua việc ông Võ Nguyên Giáp từ trần

Mấy ngày nay, người Việt khắp thế giới xôn xao bàn luận về việc từ trần của ông Võ Nguyên Giáp, người đúng đầu quân đội Việt Nam thời chống Pháp và, 1 phần trong thời chống Mỹ. Hầu như có 2 phe rõ rệt, nhắm vào 2 mục đích khác nhau : phe thứ nhất, tán dương công trạng của ông Giáp, và phe thứ 2 phủ nhận công trạng và tố cáo ông Giáp cùng chế độ Cộng Sản tại Việt Nam hiện nay. Tôi cho rằng cả 2 điều này không đáng lưu tâm lắm. Điều đáng lưu tâm hơn là qua việc ông Giáp từ trần, chúng ta lại có dịp chứng kiến sự u mê của rất đông người Việt, vì chính cái sự u mê này mà người Việt mới bị cai trị bởi Cộng Sản và xem ra thoát khỏi nó vẫn là chuyện xa vời.

Báo chí tại Việt Nam hiện nay tràn ngập thông tin về ông Võ Nguyên Giáp, tất cả đều tôn vinh ông, mà bài nào cũng hao hao nhau, chẳng có bài nào chỉ ra những cái mới mà trước đây họ chưa đề cập. Về nhận định của nước ngoài vẫn thế, cũng là những cái họ đã đề cập rất nhiều lần rồi. Một số có đề cập đến những tin tức nước ngoài hay nhận định về ông Võ Nguyên Giáp khi ông từ trần thì cũng thế, vẫn cắt gọt, tốt thì nói thêm, xấu thì xóa hẳn, và những từ ngữ có cánh, lịch sự của người phát biểu giành cho người vừa nằm xuống, như họ vẫn thường làm cho nhiều người khác chứ không riêng gì ông Giáp. Tóm lại là chẳng có gì mới.

Báo chí “lề trái” cũng chẳng khác hơn. Họ chỉ đăng tải những gì họ đã nói trước đây, về cái xấu của ông Võ Nguyên Giáp, về đảng Cộng Sản Việt Nam, về chính phủ Việt Nam, trong quá khứ và hiện tại. Cả 2 chỉ là những băng cũ được quay lại.

Phần tôi lưu tâm hơn mà thiết nghĩ cần phân tích kỹ là phản ứng của người dân tại tại Việt Nam trước cái chết của ông, qua các phản hồi trên báo Việt Nam và cộng đồng mạng như các blogers và facebook. Tôi cho rằng phần đông những phản hồi trên là thực sự của người đọc chứ không phải ngụy tạo. Và những phản hồi đó thể hiện suy nghĩ thực của họ chứ không phải phản hồi vì miếng cơm manh áo. Rất nhiều người Việt Nam tôn vinh ông Võ Nguyên Giáp như 1 thiên tài quân sự của thế giới, một kẻ đức hạnh vẹn toàn, và không ít người đã nhỏ lệ vị ông. Tôi tôn trọng tình cảm họ dành cho người vừa khuất, nhưng điều này có liên quan đến vận mệnh quốc gia, chứ không phải là vấn đề cá nhân, nên phải nói rằng họ chỉ là những kẻ mu muội. Họ không phải là những kẻ giả dối, chỉ là mu muội.

Cách đây khoảng vài ba năm, nhà độc tài ở Bắc Hàn, Kim Jong-il, đã từ trần, chính quyền Bắc Hàn tổ chức tang lễ rất lớn, với rất nhiều cảnh quay người dân Bắc Hàn khóc vật vã cho nhà lãnh đạo này. Lúc ấy chính quyền Bắc Hàn cũng tô vẽ ông ấy bằng mọi cách và dĩ nhiên không thế thiếu những trích dẫn những nhận định của thế giới về ông, như Việt Nam đang làm. Vì thế tôi cho rằng phần đông người dân Bắc Hàn khóc do cái tâm của họ đối với nhà ông Kim Jong-il. Đối với họ, ông ấy là một thiên tài, một người đã cứu họ khỏi cảnh lầm than, một người tài đức vẹn toàn mà cả thế giới phải nghiêng mình kính phục. Họ đã khóc vì họ nghĩ thế, còn người lãnh đạo ấy có thực sự như họ nghĩ hay không lại là chuyện khác.

Điều buồn cười là lúc ấy người dân Việt Nam, những người đang khóc cho ông Võ Nguyên Giáp, trên các cộng đồng mạng và cả báo chí đều cho rằng : thật tội nghiệp người dân Bắc Hàn, bị nhồi sọ kỹ quá để rồi đi khóc thương vật vã cho 1 kẻ độc tài gian ác. Họ quên mất rằng trước đó không lâu, chính họ cũng đã khóc thương ông Hồ Chí Minh một cách mù quáng, và hôm nay họ cũng khóc thương ông Võ Nguyên Giáp như thế.

Chắc chắn họ sẽ phản ứng : không thể so sánh ông Kim Jong-il với đại tướng VNG của chúng ta được và càng không thể so sánh chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh là những nhân vật ở tầm thế giới, biết bao chính khách năm châu nghiêng minh kính phục, ông Kim Jong-il chỉ là kẻ gặp thời, nếu không có Liên Xô và Trung Quốc chống lưng, chẳng biết ông Kim Jong-il có thể sống quá 30 tưổi hay không, chứ nói gì đến chuyện lãnh đạo tài ba. Chuyện thế giới tôn vinh ông Kim Jong-il là sự nhào nặn, chế biến, hay có 1 thì thêm 10, dở 10 thì bỏ hết, của nhà cầm quyền Bắc Hàn. Do đó, dân Việt ta thương khóc Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh là đúng, còn dân Bắc Hàn thương khóc ông Kim Jong-il là do mu muội, dọ bị tuyên truyền, do bị tẩy não.

Nói thế chứ họ không nghĩ rằng người dân Bắc Hàn cũng có thể có nhận định tương tự, chỉ là đánh tráo nhân vật. Người dân Bắc Hàn cũng có thể nói : không thể so nhánh Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh với lãnh tụ Kim Jong-il của chúng ta được. Lãnh tụ của chúng ta được biết bao chính khách năm châu kính phục vì đã 1 mình chặn đứng sự bành trướng của 1 đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, còn Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh chẳng qua là được Liên Xô và Trung Quốc chống lưng, nếu không thì đã chôn thây ở hang Pắc Bó từ lâu rồi. Chuyện thế giới tôn vinh ông Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh là sự nhào nặn, chế biến, hay thì có 1 thêm 10, dở thì có 10 thì bỏ hết, của nhà cầm quyền Việt Nam. Do đó dân Bắc Hàn ta thuơng khóc lãnh tụ Kim Jong-il là đúng, còn người dân Việt Nam thương khóc Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh chỉ vì bị tẩy não mà thôi.

Đó chính là sự mu muội của cả 2 bên. Cũng như người say rượu, họ không biết mình đang say, và lại thường bảo người khác say.

Nguyên nhân chính của sự mu muội của người dân tại Việt Nam là do chính sách tuyên truyền của chính quyền Cộng Sản Việt Nam hoạt động quá tích cực. Ngoài ra, có 1 nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là do tinh thần AQ của người Việt quá lớn (tôi đã đề cập ở phần “Người Mỹ – Người Việt”). Họ dễ dàng tin, hoặc thích tin, những gì làm cho họ có vẻ oai phong, nhằm che dấu cái bản chất bần hèn của mình. Và khi đã được khoác vào chiếc áo oai phong, họ không muốn, hoặc không thể, có tư duy độc lập, suy nghĩ sáng suốt, vì như thế có thể làm cái áo oai phong của họ bay mất.

Tôi đã có nhận định về ông Hồ Chí Minh, ở đây chỉ muốn có vài nhận định, không đi vào chi tiết, nói về cái tầm thực sự của ông Võ Nguyên Giáp.

Theo tôi, nói về đức, ông Giáp là 1 trong số khá hiếm hoi trong lãnh đạo chính quyền Cộng Sản Việt Nam không vướng vào những trò ô trọc. Đồng thời, khác với các nhà lãnh đạo khác như ông Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, ông Giáp là người có học thức, qua trường lớp hẳn hoi. Và có lẽ nhờ tính tự trọng của một nhà trí thức, ông đã xử sự chừng mực, tránh những trò tiểu nhân mà các “đồng chí” của ông không ngại sử dụng trong các cuộc xung đột ở cung đình.

Tuy nhiên, xét kỹ ngọn ngành thì cái đức của ông cũng không phải là hoàn hảo. Ông là 1 tướng lãnh, đứng đầu quân đội, nhưng ông đã lạm dụng sinh mạng binh sĩ. Ông đặt nặng thành tích mà coi nhẹ sinh mạng binh sĩ dưới quyền ông. Trong chiến tranh, hy sinh là chuyện không thể tránh khỏi, nhưng với những tướng lãnh có luơng tri, sinh mạng của binh sĩ phải được đặt lên hàng đầu, phải hạn chế tối đa. Với những chiến lược, chiến thuật khác nhau, người tướng lãnh có thể thực hiện những chiến công với số thương vong của binh sĩ ở mức ít nhất. Phần ông Võ Nguyên Giáp, thì chiến thuật biển người thường xuyên được áp dụng và với chiến thuật ấy, có thể chiến thắng đấy, những thiệt hại về binh sĩ không hề được lưu tâm đúng mức.

Ông Võ Nguyên Giáp phải coi thường sinh mạng binh sĩ, một phần vì hỏa lực của Mỹ quá mạnh, vũ khí quá tối tân, nhưng tôi nghĩ phần chính là cái tài của ông không đủ. Chiến tranh du kích thì chỉ có thể quấy rối, làm suy yếu tinh thần đối phương, còn muốn chiến thắng thì rồi cuối cùng cũng phải đối đầu trực tiếp ngoài trận địa mà ông lại không có thực tài trong lãnh vực này.

Ngoài ra ông cũng có những tính toán quân sự sai lầm khác, cụ thể là chiến dịch tết Mậu Thân 1968, với số binh sĩ thương vong lên đến cả 100 ngàn. Ông đã bị mất ảnh hưởng nặng nề trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam sau thất bại này, và bị thay thế bằng ông Văn Tiến Dũng. Có thể nói thành công lớn nhất của ông Võ Nguyên Giáp là trận Điện Biên Phủ. Nhưng, theo tôi trận này mang tính lịch sử, Việt Nam và thế giới, nhiều hơn là nơi phô diễn tài năng quân sự của ông Giáp, mà cụ thể là số thương vong rất lớn của lính Việt trong trận này.

Một nhà quân sự học đã nói “Một tướng tài là người cầm quân giành được chiến thắng, với số thương vong ít nhất của cả 2 phía”. Với tiêu chuẩn này thì ông Giáp ở dưới mức trung bình quá xa, vì số thương vong của binh sĩ của ông trên các trận địa quá lớn, chứ chưa nói đến phía đối phương.

Ông Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò rất lớn trong lịch sự hiện đại của Việt Nam, nhưng xét về tài năng quân sự mà báo chí Việt Nam đang tung hô, cũng như dân chúng Việt Nam đang ca ngợi, thì chỉ là trò đãi bôi. Ở tầm thế giới, ông ở dưói mức trung bình, ở tầm Quốc Gia ông trên trung mình chút ít, nhưng ông thua người kế nhiệm là Văn Tiến Dũng, và so với một số tướng lĩnh miền Nam Việt Nam, ông cũng không hơn họ.

Tuy nhiên, điều đó đã là quá khứ, không còn quan trọng nữa. Điều quan trọng trong việc này là sự mu muội của người dân trong quá trình phát triển xã hội, để đi đến một đất nước văn minh, một quốc gia pháp trị. Hơn 50 năm nay, từ thời ông Hồ Chí Minh, họ vẫn tôn thờ các nhà lãnh đạo một cách mù quáng như thế. Chuyện chẳng gì khó khăn lắm, thậm chí có cái chết của lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il để so sánh, thế mà họ còn không tỉnh ngộ, thì cái chuyện hiểu thấu đáo khái niệm dân chủ, tinh thần pháp trị, hẳn còn lắm gian nan.

ĐINH NGHỆ AN 

Ai thống trị Việt Nam ngày nay: Đảng Cộng sản hay là Hán Ngụy?

Có một tổ chức hiện nay cai trị Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau như là vua chúa Phong kiến ở Tàu hay ở Âu châu thời Trung cổ . Một bộ máy võ trang tập trung các quyền hành lớn trong tay; không được dân bầu lên, và dân tuyệt đối không có quyền kiểm soát hay phê bình. Tổ chức này mang tên là “Đảng Cộng Sản Việt Nam”.

Nhưng, thực sự, tổ chức nầy có phải là một Đảng đúng nghĩa của một đảng hay không?

Đáng lẽ ra một Đảng chánh trị phải có một chánh nghĩa, một sức mạnh do một lý tưởng, một nền tảng triết lý hay lý thuyết, một khuynh hướng thể hiện nguyện vọng của đảng viên để hành động nhằm phục vụ đất nước và dân tộc
của mình.

Vì vậy, nếu cái gọi là Đảng Cộng Sản mà không phải là một Đảng đúng nghĩa, thì bộ máy đó là cái gi?

Một tập thể những người có chung một chí hướng tôn thờ người ngoài, một công ty làm ăn, một tổ chức mafia khai thác thị trường đất nước của họ chăng?

Như vậy chúng ta có vài tiêu chuẩn để đánh giá cái gọi là Đảng Cộng Sản bây giờ, đó là một đảng phái hay chỉ là một bọn làm ăn thiếu lương thiện?

Tôi đồng ý đã có thời gian cái goi là đảng Cộng Sản ngày nay có những hoạt động như là đảng phái đúng nghĩa. Nhưng những hoạt động ấy tốt xấu, hay dở, có lợi hay có hại cho đất nước Việt nam là chuyện khác .Tôi nói đó là một “thứ đảng phái” vì lúc ấy đảng Cộng Sản theo ý thức hệ Mác-Lê, vận dụng chủ thuyết mác-lê làm cách mạng võ trang cướp chánh quyền thực dân. Tiếp theo, đảng cộng sản phát động cuộc cách mạng xã hội, tiến hành giai cấp đấu tranh, đấu tố địa điền chủ, ám sát công chức, trí thức, lãnh đạo tôn giáo, tịch thâu tài sản của người giàu có để sau cùng đưa giới lao động, những tên du thủ du thực, lên cầm quyền và khi vào Bộ chánh trị, lại lãnh đạo đất nước, dân tộc. Hành động của đảng cộng sản lúc đó có mục đích thi hành “chính nghĩa xã hội chủ nghĩa ” theo ý hệ
Mác-Lê.

Nhưng từ lâu lắm rồi, cái gọi là đảng Cộng Sản không còn giống như trước đó nữa. Nó đã hoàn toàn biến chất để trở thành một cái gì khác hẳn. Tức nó không phải cộng sản, không mang nội dung mác-lê, không chủ trương giai cấp đấu tranh để tiến lên xã hội công bằng, người không bốc lột người, như kinh điển mác-lê dạy người cộng sản.

Cách đây vài năm, ông Đặng Quốc Bảo, Khoa giáo trung ương, trong một báo cáo phổ biến hạn chế cho đảng viên cao cấp, nói rằng “hiện tại đảng Cộng Sản không còn chính nghĩa chút nào vì thuyết Mác-Lê lỗi thời và cũng không đúng, không khoa học”. Theo ông Bảo, thì đảng cộng sản không nên áp dụng thuyết ấy nữa. Hai ông Mác và Lê đã nghĩ sai về vũ trụ, về trời đất, về đời sống nhân loại. Vậy người thông minh phải vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê.

Nếu ông Bảo đánh giá lý thuyết Mác-Lê đúng, thì đảng Cộng Sản không có một chính nghĩa nào để vẫn khẳng định tiếp tục đưa Việt nam đi theo con đường của mác-lê.

Vậy đảng cộng sản là cái gì? Chỉ là một tập hợp những người đầy tham vọng và quyền lực. Họ không khác gì một thứ giặc cướp đối với nhân dân.

Ông Bảo nói thêm rằng “ tổ chức anh chị em cán bộ phải giử quyền cai trị Việt nam vài năm nữa, vì nếu không có một lực lượng mạnh giử ổn định chính trị xã hội, thì nước sẽ loạn và dân sẽ khổ ”.

Lấy sự ổn định làm chính nghĩa của mình không có ý nghĩa tốt đẹp vì hoàn toàn thiếu thuyết phục. Chính nghĩa ổn định, nhiều người bình thường có thể nói và thi hành. Cần gì phải có cái gọi là đảng Cộng Sản với 3 triệu đảng viên, với vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước và xã hội ? Quân Đội làm được. Phật Giáo làm được. Việt Quốc làm được. Ai cũng hy vọng làm được. Cái gọi là đảng Cộng Sản không thể tự cho là chỉ có họ mới làm được.

Theo tuyên truyền của đảng cộng sản, trong quá khứ, họ có công đức lớn để đứng trên và trước mọi người khác. Tức họ cho rằng họ có vai trò lịch sử Có đúng như vậy không?

Để trả lời, giờ đây, Bộ Chính Trị hãy tổ chức gọi hồn các đồng chí của họ đã chết, chết vì hi sinh hay chết oan vì đảng cũng được, để hỏi công việc đảng làm. Rồi, có lẽ họ nên gọi hồn để hỏi cái gọi là đảng cộng sản thật sự có công đức với dân tộc Việt Nam hay không? Rồi, họ có thể gọi hồn để hỏi đảng cộng sản tại sao ngày nay vẫn nói đi theo mác-lê, mà trên thực tế không thấy xã hội việt nam chuyển biến theo mô hình” chính nghĩa Mác-Lê.” một chút nào nữa. Vậy thì cái đảng này nên tự giải tán, và có mang tội với đất nưóc, với dân tộc không?

Chúng tôi cũng có thể gọi hồn như Bộ Chính Trị. Chúng tôi có thể gọi hồn các vị cũng nằm xuống, vì nhiều lý do khác nhau, hỏi họ về công đức của cái gọi là đảng Cộng Sản.

Thí dụ, hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, hỏi ông Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng , ông Lý Đông A, Thư ký trưởng Đảng Duy Dân, các nhân sĩ yêu nước Ngô Đình Khôi, Nguyễn văn Bông, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Hồ văn Ngà, Phan văn Hùm, Nguyễn văn Sâm, … và những người dân Huế chết hồi Tết Mậu Thân, vân, vân, … cho đến 1 ,2 triệu người Việt nam bình thường khác, chết trên biển cả, trong rừng sâu, trong các trại tù rải rác khắp cả nước.

Gọi hồn tất cả những người này về và lắng tai nghe họ nói số phận của dân tộc Việt Nam từ khi Đảng Cộng Sản vận dụng “chính nghĩa Mác-Lê” để cướp lấy quyền lãnh đạo đất nước và giử độc tôn cho đảng .

Xin trả lời: Công đức ở đâu?

Bằng chứng thứ hai cho thấy cái gọi là đảng Cộng Sản là một đảngthì đảng ấy có hành động cụ thể như thế nào?

Ngoài sự hiểu biết, sự suy nghĩ, sự tính toán của con người, các hành động của người đó phải cho chúng ta thấy rõ, một cách minh bạch, để kết luận người đó tốt hay xấu, giỏi hay dở, đạo đức hay gian ác, cần tồn tại hay nên vứt
đi thôi ?

Cái gọi là đảng Cộng Sản đó, cách đây 8 năm, đã tự động hiến dâng đất đai của tổ tiên để lại cho Bắc Triều mới . Và cả biển nữa! Tại sao?

Để đáp ứng sự đòi hỏi của Bắc Triều mới? Phải.

Ở điểm này, chúng ta hảy nhìn rõ. Cái gọi là đảng Cộng Sản đó vì nhu cầu tồn tại đã dâng đất, dâng biển cho Bắc kinh. Đây là nhu cầu sanh tử. Đảng cộng sản phải làm một việc tội lỗi như vậy chỉ vì đảng lo sợ nhân dân Việt nam hỏi tội của họ đối với tổ quốc và nhân dân từ trước đến giờ. Mà nhân dân hỏi tội có nghĩa là đảng sẽ bị mất quyền cai trị. Hoặc một vụ Thiên An Môn Việt Nam sẽ xảy ra . Trước nỗi ám ảnh mất quyền lực, đảng cộng sản cần sự ủng hộ, sự tiếp tay của Bắc Triều mới, mặc dầu có tổn hại đến quyền lợi tối thượng của Quốc gia.

Như vậy đảng cộng sản ở Hà nội không thể tự cho là một đảng có chính nghĩa yêu nước được, mà phải bị kết án là một đảng bán nước mới đúng.

Nếu đảng Cộng Sản Hà nội chuyên tâm phục vụ cho đòi hỏi, tham vọng của Bắc Triều mới, thì Việt nam tất nhiên phải lâm nguy làm thân nô lệ cho Hán Tộc. Nếu chỉ có riêng cái đảng cộng sản làm nô lệ hán tộc thì chúng ta hà tất phải tốn lời.

Thực tế ở Việt nam cho ta thấy công an, tình báo của Việt Nam đều do công an, tình báo Trung Quốc đào tạo và cố vấn. Nhờ đó mà công an, tình báo Hà nội mới có đủ bản lãnh đàn áp những người dân chủ ở Việt nam, đàn áp dân oan nạn nhân của những vụ đất đai bị đảng cộng sản tước đoạt, đàn áp những vụ biểu tìng chống Trung quốc xăm chiếm đất đai bằng vũ lực và thô bạo.

Nhìn lại lịch sử Việt nam thì từ thời Ngô Quyền đến nay, chỉ có vài nhà vua Việt nam theo Bắc Triều một cách xấu hổ như vậy. Có Nhà Mạc phải xin sự ủng hộ của Hoàng đế phương Bắc để đối phó với Nhà Lê. Có vua Lê Chiêu Thống xin Trung Quôc gởi binh qua Hà nội để đánh anh em Nhà Tây Sơn. Có vua Gia Long và Minh Mạng lấy y thức hệ Tống Nho của Nhà Thanh bên Tàu để làm nền tảng đạo lý xây dựng uy quyền cho Nhà Nguyễn . Nhưng các ông vua này không làm mất đất, mất biển vào tay ngoại bang chỉ vì quyền lợi riêng tư như đảng cộng sản ngày nay.

Cầu viện thường hay lệ thuộc tư tưởng của kẻ khác, khó tránh khỏi bị dẩn đến mất chánh nghĩa quốc gia. Phải chăng vì thế mà Nhà Mạc đã không thắng Nhà Lê, vua Lê Chiêu Thống thua Quang Trung Nguyẽn Huệ. Riêng Nhà Nguyễn vì chọn lựa sai lầm học thuyết lỗi thời mà cứ khăng khăng ôm giữ nên thua người Pháp. Tức
một thứ lệ thuộc tư tưởng. Khi có được chỗ dựa mạnh là Bắc kinh, cái gọi là đảng Cộng Sản sẽ đánh bại được toàn dân Việt nam chăng? Tức đảng cộng sản vỉnh viễn đàn áp, bốc lột nhân dân chăng?

Mới đây khi nghe tin Bắc Kinh tổ chức Hoàng Sa và Trường Sa trở thành môt đơn vị hành chánh mới trực thuôc Tỉnh Hải nam, lập tức xảy ra nhiều cuộc biểu tình của dân chúng thanh niên, sinh viên ở TP Hồ Chí Minh, ở Hà nội, chống chánh sách xăm lược của Trung Quốc. Cái gọi là Đảng Cộng Sản không dám lên tiếng phản đối kẻ cướp đất, trái lại thô bạo đàn áp dân chúng công khai bày tỏ lòng yêu nước. Khí thế của nhân dân Việt nam bây giờ làm cho đảng cộng sản Hà nội bắt đầu lo sợ. Nếu đảng cộng sản khôn ngoan thì hảy thấy ở đây, tức ở nhân dân, mới là chổ dựa vửng chắc hơn thế của Trung Quốc.

Nhưng cái gọi là Đảng Cộng Sản nghe theo ai?

Buồn mà nói. Vì nói cho đúng thì phải nói lớn và nói rỏ phe nhóm cai trị Việt Nam hiện nay là một bọn Hán Ngụy.

Tiếc vì chúng tôi biết chắc chắn có nhiều đảng viên của cái gọi là Đảng Cộng Sản không muốn như vậy. Họ thương dân, yêu nước thật lòng. Nhưng họ lo sợ, có thể vì bất lực, cho sự an nguy của bản thân và gia đình trước những
thủ đoạn khéo léo, gian ác, đê hèn của lực lượng Công An, Tình Báo đang có mặt khắp nơi rình rặp.

Bọn Hán Ngụy thật sự không có nhiều người, nhưng họ có thế mạnh và nhiều tiền bạc. Họ quyết tâm giữ quyền lực cai trị đất nước mãi mãi. Họ sẽ làm cái gì phải làm để không mất địa vị cầm quyền, tức quyền làm ăn, làm giàu của họ.

Lệ thuộc Bắc Kinh, đối với họ, là một giá phải trả, họ chấp nhận trả, để có phương tiện ổn định xã hội chính trị Việt nam, tức duy trì chế độ độc tài toàn trị. Ổn định là cho quyền lợi của họ. Đất nước đối với họ chỉ là phương tiện trao đổi.

Trung Quốc có một triết lý bình định thiên hạ từ đời Tần Thủy Hoàng. Ông ấy lấy ý kiến của phái Pháp Gia gồm lý thuyết âm dương, ngũ hành để kiến tạo thái hòa. Làm chính trị như vậy không theo sự giảng dạy của Khổng
Mạnh, trái lại, đưa ra chính sách đại đoàn kết, giữ phép nước dưới sự lãnh đạo đọc tôn theo một vị hoàng đế. Đó là thuyết của Mặc Địch.

Cái đạo chính trị này – “ hoàng đế chính thuyết ”– là lý thuyết xây dựng xã hội không cần nghe ý dân. Đi từ trên xuống, không phải từ dân lên. Ngày nay là tập trung dân chủ, tức dân chủ xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ chí minh. Hoàng Đế nghe trời, ra lịnh và thiên hạ phải tuân theo. Dân không nghe theo thì sẽ bị phạt, nặng nhẹ
tùy theo mức độ của sự phản bội, bất hiếu đối với chế độ.

Một ông Hoàng Đế không cần đức, không cần uy tín mà vẫn giữ được ổn định xã hội. Hiếu nghĩa thay thế nhân nghĩa. Cấp trên nói cái gì thì cấp dưới vâng dạ theo răm rắp. Nói vô phép, mất dạy, thì bị phạt, không được phần thưởng.

Đạo làm hoàng đế có mục đích lấy ý trời và qua cơ cấu hành chánh, ép thiên hạ vâng lịnh làm theo ý đó, mặc cho họ muốn hay không.

Trong lịch sử Việtnam, các Nhà Lý, Trần và Lê không lấy đạo Hoàng Đế của Bắc Triều để trị dân. Nhà Lý và Nhà Trần theo đạo Phật. Nhà Lê cho đến Vua Lê Thánh Tôn theo quan điểm nhân nghĩa do Nguyễn Trãi viết ra.

Vua Lê Thánh Tôn bắt đầu theo chủ nghĩa Bắc Triều , tức lấy Tống Nho bênh vực ngôi vị Hoàng Đế một cách mù quáng với đạo hiếu nghĩa cha mẹ, vua chúa. Đến Nhà Mạc, Chúa Trịnh, thì ảnh hưởng Tống Nho ở cấp quan văn và các đại gia đình quan chức mở rộng. Nhà Nguyễn áp dụng Tống Nho và quan điểm hoàng đế, đưa triều đình Huế đi theo gương Nhà Thanh bên Tàu.

Trước đây, cái gọi là đảng Cộng Sản chụp mũ những người Việt nam không Cộng Sản mà hợp tác với Mỹ Quốc để giữ độc lập cho miền Nam Việt Nam là “Mỹ Ngụy” .

Bây giờ, nhìn về quá khứ thì chúng ta có thể đánh giá ai có công lớn hơn cho Dân Tộc Việt nam: Mỹ Ngụy hồi đó hay Hán Ngụy bây giờ?

Người Mỹ khi họ giúp các Chính Phủ Việt nam Cộng Hòa, khi họ làm cố vấn cho Chính phủ và quân đội quốc gia, họ thật sự muốn gì? Họ khuyến khích người Quốc Gia làm gì? Họ đòi hỏi Chính Phủ Sài gòn có chính sách nào?

Nói chung, người Mỹ từ Tổng Thống Eisenhower cho đến Tổng Thống Nixon, từ Đại Sứ Elbridge Durbrow cho đến Đại Sứ Ellsworth Bunker, tất cả đều yêu cầu Chính Phủ Sài gòn lo cho dân, áp dụng chế độ hiến trị, tổ chức các cuộc bầu cử từ xã ấp đến trung ương, trong sạch, dân chủ, cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, mở rộng giáo dục theo tôn chỉ “nhân bản, khoa học, khai phóng ” …

Đối với Mỹ thì ý dân là hơn ý trời. Mỹ không bao giờ theo “ hoàng đế chính thuyết ”.

Như vậy làm Mỹ Ngụy là chọn phương pháp lo cho dân, cho quê hương Việt nam, cho văn hóa, đạo đức dân tộc. Người Mỹ đến Việt nam, không ở lại Việt nam. Và “dân ngụy.” không hiến dâng đất dai, biển cả cho ngoại bang. Hơn nữa, trong lịch sử, người Mỹ không làm thuộc địa, không làm Thái thú, chỉ làm bạn đồng minh giai đoạn.

Còn người Việt nào bây giờ làm Hán Ngụy thì phục vụ ai? Họ có lo sợ số phận Tổ quốc của họ không? Hay chỉ có chung một thứ Tập hợp những người cùng chí hướng tôn thờ quyền lợi bản thân mà thôi?

THEO Stephen B. YOUNG

 

Vụ án Dương Chí Dũng: Dư luận bàng hoàng, phẫn nộ

Đau xót ở chỗ biết rõ sai phạm nhưng mọi thủ tục về thông quan, nhập khẩu, thanh toán hợp đồng đều chót lọt

Kết luận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cục Cảnh sát điều tra tội phạm vềtham nhũng (Bộ Công an) về Vụ án “ụ nổi” tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) làm thiệt hại ngân sách Nhà nước gần 370 tỷ đồng đang khiến dư luận bàng hoàng, phẫn nộ.

Chuyện thật mà như đùa khi một ụ nổi to đùng lại chui lọt hàng loạt “cửa” cơ quan chức năng để về nằm chềnh ềnh hoen rỉ nhiều năm trời. Một ụ nổi hư hỏng hết, chỉ còn duy nhất một tác dụng là phá hoại môi trường đã được Vinalines “biến báo” ngoạn mục để phê duyệt mua về. Và đống sắt vụn đó đã phát huy đúng tác dụng của nó là tàn phá môi trường.

Câu chuyện này ngay từ đầu đã thể hiện rõ bản chất ly kỳ hiếm thấy. Đến tháng 10/2008 mới có quyết định phê duyệt dự án nhưng trước đó một năm rưỡi, Vinalines mà Dương Chí Dũng lúc đó là Chủ tịch HĐQT đã tổ chức đấu thầu, chào hàng cạnh tranh mua ụ nổi.

Nhưng chuyện hài hước không chỉ dừng lại ở đó, trong 3 ụ nổi được chào thầu, Vinalines chỉ “nhắm” tới ụ nổi 83M của Công ty AP (Singapore) “quá đát” 18 năm mà bỏ qua 2 ụ nổi khác tuổi đời trẻ hơn nhiều.

Để hợp thức hóa về mặt thủ tục, Vinalines đã cử một đoàn khảo sát có đại diện của Cục Đăng kiểm Việt Nam sang Liên bang Nga khảo sát tình trạng kỹ thuật của ụ nổi này. Sau khi biết rõ “tác dụng” chẳng để làm gì của ụ nổi 83M và cũng biết rõ Công ty AP chỉ là đơn vị trung gian chào bán không phải đợn vị sở hữu, Vinalines vẫn quyết định “chèo lái” kết quả khảo sát để mua bằng được món đồ “đồng nát” này, thêm nữa, nhất quyết không làm việc với chính chủ mà phải qua Công ty “cò”AP.

Ai đời, chủ sở hữu chỉ chào với giá chưa đến 5 triệu USD, mà “bộ sậu” Dương Chí Dũng lại có thể đưa “khống” lên tới 9 triệu USD, rồi cộng thêm tiền rước về, công sửa chữa, neo đậu, …định giá lúc đầu là 14,136 triệu USD, rồi lại “phóng tay” chốt thành 19,5 triệu USD. Đúng là chỉ có “tiền chùa” mới dễ dàng biến báo và “chặt gọn” êm như lông hồng đến vậy!

Đau xót ở chỗ biết rõ sai phạm nhưng mọi thủ tục về thông quan, nhập khẩu, thanh toán hợp đồng đều chót lọt. Kết luận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cục Cảnh sát điều tra tội phạm vềtham nhũng (Bộ Công an) cho thấy, tổng thiệt hại do các sai phạm tại Vinalines là gần 370 tỷ đồng.

Tuy nhiên, con số thiệt hại hàng trăm tỷ đồng này không phải là con số cuối cùng bởi những sai phạm đã dẫn đến hậu quả là dự án nhà máy bị phá sản giữa chừng, ụ nổi 83M không đưa vào hoạt động được vẫn “ngốn” thêm hàng triệu đô la tiền thuê cảng neo đậu, công trực sự cố, tiền lãi ngân hàng…và trở thành đống sắt rỉ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng không thể tính đếm được giá trị thiệt hại.

Do hào phóng “biếu không” cho “Cò” nước ngoài 4 triệu USD mà “bọn lâu la” Dương Chí Dũng được “lại quả” 1,66 triệu USD ( tương đương 32 tỷ VND). Số tiền này được chia chác theo thứ-bậc, công-trạng rõ ràng.Được 10 tỷ đồng, “vua” Dương Chí Dũng đã sủng ái tặng cho “phi tần” 2 căn hộ sang trọng, cao cấp vào bậc nhất tại thủ đô.

Câu chuyện ly kỳ, hài hước lại không hề viễn tưởng chút nào bởi thực tế vẫn sờ sờ ra đó cái ụ nổi hoành tráng không biết phải xử lý ra sao? Bởi để phá ra bán đồng nát cũng không dễ dàng, chắc chắn rằng nhà nước lại tiếp tục phải mất tiếp một khoản không nhỏ để xử lý cái đống sắt vụn 9 triệu USD này.

Cú “ném tiền qua cửa sổ” của Dương Chí Dũng và đồng bọn thật ngoạn mục! Qua vụ án này, dư luận không khỏi không đặt câu hỏi, sẽ còn bao nhiêu “Dương Chí Dũng” chưa bị lộ? Và một phần kết luận mà Bộ Công an vừa công bố đã làm sửng sốt, bàng hoàng dự luận đến vậy thì phần còn lại sẽ là những gì?

Kết luận thanh tra cũng đã rõ, tội trạng rồi cũng được luận định công khai, chỉ tiếc là số tiền thiệt hại khổng lồ thì không thể lấy lại được. Trong khi đất nước đang khó khăn, gánh nặng vào ngân sách ngày càng chật vật, phương án cắt giảm lương cho cán bộ, công chức cũng được đề xuất để giảm bớt bội chi, thì những vụ án tham ô, tham nhũng, lãng phí tiền của Nhà nước kinh khủng như vụ án Dương Chí Dũng vẫn xảy ra.

Lòng dân phẫn nộ khi bên cạnh những Dương Chí Dũng, còn có những đăng kiểm, hải quan tha hóa, biến chất, bị đồng tiền làm mờ mắt, chỉ tìm cách “vét cho đầy túi tham” phá hoại nền kinh tế đất nước. Lòng dân cũng mong muốn làm sao công tác giám sát, thanh tra phải chặt chẽ hơn, làm sớm hơn, đi trước một bước chứ không bị động chạy theo chuyện đã rồi./.

Theo VOV

Bài viết đáng chú ý


Trần Thị Cẩm Thanh – Người H´ Mông 4 tỉnh phía Bắc đổ về Hà Nội đòi thả người

Danluan

Trần Thị Cẩm Thanh

Trong mấy ngày qua, trời Hà Nội mưa và gió lạnh, thông tin về những người H´ Mông bị bị công an quận Đống Đa đuổi ra khỏi nhà thờ trong đêm giá lạnh đã khiến cộng đồng không thể bàng hoàng, bàng hoàng vì tại sao con em nhân dân sau khi được tuyển vào ngành công an, ngành công an đã đào tạo họ như thế nào, môi trường sống và làm việc ra sao mà chúng nó lại trở nên tàn nhẫn như vậy,…

Sáng 9/10/2013 chúng tôi có mặt tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng để tìm hiểu sự việc, tìm hiểu xem người H’ Mông đã làm gì mà bị công an tìm cách xua đuổi ra khỏi Hà Nội như vậy,…..thì ra họ về thủ đô là để đòi người, những người bị bắt đi khi họ tham gia đấu tranh với chính quyền những mục tiêu sau của người H’ Mông.

1. Đấu tranh cho quyền làm chủ của người dân.

Theo trình bày của người dân H’ Mông tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng thì tất cả dân tộc H Mông sống trong 4 tỉnh phía Bắc là Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều bị đàn áp tàn nhẫn, cấm không cho sống đời sống văn minh mà bắt trở về với các thủ tục lạc hậu của dân tộc H’ Mông.

Người H’ Mông không nghe theo chính quyền địa phương bắt họ trở lại phong tục tập quán như xưa, đó là người chết phải treo trên tường 7 ngày 7 đêm và phải bón cơm, phải mổ trâu mổ bò ngồi ăn cùng với xác chết 7 ngày 7 đêm rồi vác xác chết đi chôn không quan tài, 13 ngày sau lại phải mổ trâu bò cúng ma, người H’ Mông không nghe theo chính quyền xã, huyện sống lại phong tục lạc hậu từ trước năm 1989.

Từ năm 1989 người H’ Mông thuộc 4 tỉnh phía bắc bao gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đã xây dựng cho mình một cuộc sống mới, từ bỏ phong tục cổ hủ, lạc hậu, họ đã thống nhất mỗi nơi làm một cái nhà nhỏ để đồ tang lễ để mỗi khi ai chết mang ra dùng.

Người H’ Mông không chấp nhận chính quyền và công an mang dùi cui điện và còng số 8 đến đàn áp, phá nhà tang lễ và đánh đập người dân, nhiều người bị bắt mang đi.

2. Đấu tranh cho sự thật, yêu cầu chính quyền phải trả lại tiếng thơm cho anh Dương Văn Minh.

Người H’ Mông rất biết ơn anh Dương Văn Minh trú quán thôn Ngòi Sen, xã Yên Lâm, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, anh Minh là người đã giúp người H’ Mông cải đổi đời sống. Người H’ Mông đã sống và thay đổi phong tục tập quán mới như trên từ năm 1989 là nhờ anh Dương Văn Minh, họ đã sống trong môi trường trong lành và đời sống khỏe mạnh, không còn ám ảnh bởi mà tà cúng tế, mổ trâu bò suốt 7 ngày 7 đêm nữa,…thế nhưng anh Dương Văn Minh lại bị công an bắt giam 5 năm tù với tội tổ chức tôn giáo trái pháp luật.

Người H’ Mông chính là nhân chứng cho sự thật, cho những việc làm của anh Dương Văn Minh, họ không chấp nhận việc chính quyền bóp méo sự thật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của nhân dân và đòi hỏi chính quyền phải trả lại tiếng thơm cho anh Dương Văn Minh, cấp bằng khen thưởng cho anh Dương Văn Minh, người đã mang lại cho dân tộc H’ Mông đời sống văn minh, thoát khỏi đói nghèo 25 năm nay.

Người H’ Mông yêu cầu chính quyền phải điều tra sự thật và truy tố những cán bộ làm sai pháp luật, bồi thường thiệt hại, trả lại những đồ tang lễ, không được phá nhà bảo quản đồ tang lễ để họ trở về với cuộc sống bình an và văn minh.

Ngoài ra người H’ Mông cũng thách chính quyền là nếu chính quyền bắt họ trở về với những phong tục lạc hậu thì đề nghị chính quyền phải cung cấp trâu bò, tiền, bạc, lợn gà, rượi, gạo….để họ cúng ma làm lễ, chính quyền về sống và cùng thực hiện cúng mà với bà con nhưng phải làm nhà treo xác riêng và chính quyền phải tự vác xác đi chôn. Nếu chính quyền làm được như trên thì họ sẽ quay về với tập tục lạc hậu (xem tại ảnh các ảnh chụp đơn tố cáo của người H’ Mông kèm theo cuối bài).

Trên đây là 2 lí do căn bản đã dẫn đến sự việc người H’ Mông bỏ nhà cửa, cuộc sống của mình về Hà Nội để đấu tranh đòi thả người, họ nói “khi nào chính phủ và nhà nước không bắt dân tộc này nữa, không làm cho dân tộc này hoàng mang lo sợ nữa thì chúng tôi sẽ về, tự nhiên chúng tôi sẽ về, chúng tôi có nhà cửa, có cuộc sống của chúng tôi chứ, chẳng qua không công bằng nên chúng tôi phải đi đòi hỏi” (nghe phát biểu của Ma Văn Pá và Lý Văn Anh người dân tộc H’ Mông)

 

 

 

http://youtu.be/HuwFJ-rNtBs

 

 

 

http://youtu.be/LV8HuuNxK58

Trong một tuần xuống Hà Nội họ lại tiếp tục bị công an tiếp tục đối xử tàn nhẫn, lại có thêm 2 người bị thương,… họ đến nhà thờ xin trú ngụ, nương nhờ trong đêm mưa gió nhưng bị công an quận Đống Đa đến yêu cầu ra vườn hoa…để ngủ.

Người H’ Mông ở Hà Nội đang bị công an gây cản trở, nhưng nghe họ phát biểu, tôi có niềm tin vào họ, một dân tộc thật thà và mạnh mẽ, họ đấu tranh với một niềm tin xác đáng rằng họ xứng đáng có được một cuộc sống dân chủ, văn minh như họ muốn xây dựng.

Sau đây là một số cảnh sinh hoạt của người H’ Mông tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng sáng ngày 19/10/2013












Tang lễ của lòng dân

Nguyễn Lễ

BBCVietnamese.com

Cập nhật: 13:18 GMT – chủ nhật, 20 tháng 10, 2013

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Việt Nam vừa trải qua một tuần lễ khác thường.

Trong vòng 100 năm qua, theo tôi biết, chỉ có ba lần người dân Việt Nam biểu lộ tình cảm ở mức độ to lớn như thế với lễ tang một cá nhân.

Đó là tang lễ của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1969 và khi hàng chục vạn người xuống đường ở Sài Gòn tiễn đưa chí sỹ Phan Chu Trinh vào năm 1925 – đánh dấu một dân tộc đã thức tỉnh sau hơn nửa thế kỷ quen với ách cai trị của người Pháp.

Và bây giờ là quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Xét tình hình Việt Nam hiện nay thì ít nhất trong mấy chục năm nữa cũng không có tang lễ nào đạt tầm vóc như thế.

Tuy nhiên, đối với một dân tộc có quá nhiều đau thương, thì việc tôn vinh người từng là một trong những tư lệnh của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn có thể khiến cho nhiều người đau lòng.

Dẫu sao ông đã nằm yên dưới ba tấc đất, mọi ân oán đối với ông cũng không còn ý nghĩa.

Hơn cả quốc tang

Từ mấy năm trước, khi dõi theo ông Giáp bước qua ngưỡng ‘thiên tuế’ rồi 101, 102, rồi khi chứng kiến lòng dân hội tụ về ông dâng cao qua từng năm, tôi tự hỏi một mai ông nhắm mắt xuôi tay thì không biết lòng dân sẽ ra sao?

Tình cảm tịnh tiến qua năm tháng đó trong phút chốc vỡ òa như nước lũ!

Nhà nước đã dành cho ông nghi thức tang lễ cao nhất mặc dù ông không thuộc vào hàng lãnh đạo chóp bu của đất nước.

Nhưng quốc tang ở Việt Nam thì không dưới cả chục lần. Gần đây nhất, tang lễ ông Võ Chí Công không để lại dấu ấn gì, còn khi các ông Võ Văn Kiệt và Phạm Văn Đồng qua đời người dân cũng tiếc thương nhưng chưa đến mức độ như thế.

Có quốc tang nào mà số cán bộ quan chức đi viếng hoàn toàn bị áp đảo bởi những người dân thường xếp hàng đến tận nửa đêm?

Ông Giáp tại tang lễ Phạm Văn Đồng

Ngay cả tang lễ ông Phạm Văn Đồng cũng không diễn ra ở quy mô như tang lễ ông Giáp

Có nhân vật nào được người dân đến viếng tại tư gia trong dòng người kéo dài không dứt từ ngày này sang ngày khác?

Có buổi tiễn đưa nào mà hàng ngàn xe biển trắng hòa vào dòng xe biển đỏ biển xanh làm nghẹt cả một đoạn đường quốc lộ?

Đám tang ông Giáp, do đó, theo tôi nghĩ, không còn là một quốc tang bình thường nữa. Nó đã trở thành tang lễ của nhân dân.

Có mặt ở Việt Nam vào những ngày quốc tang, tôi muốn tìm câu trả lời cho những nghi ngờ rằng: Người dân tiếc thương liệu có thật không? Tại sao họ yêu quý ông đến vậy?

Tôi đã thấy có người mang hoa đến nài nỉ lính gác đem vào trong dù lễ viếng tại nhà ông đã đóng cửa và hai bên lối đi trong sân đã rải đầy hoa.

Tôi đã thấy những người đàn ông và phụ nữ đứng bái vọng từ bên ngoài cánh cổng khép kín. Tôi cũng nhìn thấy những đôi mắt đỏ hoe.

Tôi đã thấy chân dung ông được bày bán ở nhiều nơi ở Hà Nội trong khi rất nhiều bạn trẻ mặc áo phông in hình ông.

Tôi đã thấy những người dân bán hương hoa ở đầu ngõ vào nhà ông ở Lệ Thủy giống như bán cho khách đi lễ chùa.

Tôi đã thấy đoàn dài các em nhỏ cỡ 9, 10 tuổi mặc đồ đen cầm cờ rũ bước đi trên con đường đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Tôi cũng thấy rất nhiều xe gắn máy cắm cờ đỏ buộc dải băng đen hòa vào dòng xe đưa tiễn và lác đác bên đường có chỗ bày hương án.

Tôi đã chứng kiến có người bỏ tiền mua nước đến phân phát cho đồng bào đưa tang trong cái nắng đổ lửa.

Tôi đã nghe câu chuyện một người dân bán một tạ thóc thuê xe chở cả gia đình đi tiễn ông chỉ để nhìn thấy linh cữu và thắp một nén hương.

Tôi đã hỏi thăm và nghe câu nói chân thành của một nam công nhân ngoài 30 tuổi ở Đồng Hới: “Hôm nay ông về quê. Tôi muốn tiễn ông đoạn đường cuối cùng.”

Tôi đã chứng kiến cảnh đói, khát, đi, đứng, nằm, ngồi vật vạ bên vệ đường trong lúc dòng xe kẹt cứng trên đường ra Vũng Chùa.

Tôi đã mua một bó hoa cúc ở Đồng Hới với giá 50.000 đồng, tức gấp đôi giá ở Sài Gòn hay Hà Nội, và được cho biết dù hoa đắt bằng cả một ngày chợ của dân nghèo mà vẫn không có hàng để bán mặc dù người dân Quảng Bình mới vừa bị bão đánh tơi bời.

Tại sao tôn kính?

Người dân bao nhiêu năm qua không được tập trung tuyên truyền về ông Giáp, hơn nữa họ có thể nghe được những thông tin trái chiều. Thế tại sao họ tôn kính ông đến vậy?

Xét về công thì tên tuổi ông được nhìn nhận rộng rãi gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ – một chiến công xét về ý nghĩa sánh ngang với Bạch Đằng, Chi Lăng hay Đống Đa.

Xét về chỗ đứng lịch sử thì ông là bậc khai quốc công thần từ những ngày đầu và đã trải qua bao biến thiên của đất nước cho đến tận ngày hôm nay.

Hơn nữa, ở một đất nước vẫn còn tình cảm tự ti thể hiện rõ nét qua thái độ sùng ngoại thì một nhân vật được thế giới tôn trọng như ông Giáp đã giúp hồi sinh trong người dân lòng tự hào trước thế giới.

Bản thân tôi ở Đồng Hới còn nghe có người ca tụng ông đứng trên cả Napoleon của Pháp hoặc Pierre Đại đế của người Nga.

Thế nhưng, dù công trạng hay danh tiếng, theo tôi nghĩ, để lay động lòng người thì phải cần điều gì đó rất người chứ không phải duy ý chí.

Và tôi đã nghe hai người phụ nữ giấu tên là quản lý cho một công ty nước ngoài ở Sài Gòn chia sẻ ở trước cổng 30 Hoàng Diệu: “Nếu chỉ vì công lao thì chúng tôi đã không bay ra đây để viếng ông. Chúng tôi cảm phục ông vì ông là người vì dân, vì nước.”

Có một câu nói của ông Giáp mà báo chí trong nước hay dẫn lại khi nói về ông: “Tôi còn sống ngày nào là vì dân, vì nước ngày đó.”

Người dân đến viếng ông tại quê hương ở Lệ Thủy

Đến viếng tại quê nhà ông ở Lệ Thủy có doanh nghiệp, đoàn thể, trường học và cá nhân

Dẫu sao đây cũng chỉ là một câu nói, nhưng có những chi tiết trong đời ông khiến tôi tin rằng đây là lời nói thật lòng.

Ông đi hoạt động cách mạng xuất phát từ cảnh đất nước lầm than và ông đến với chủ nghĩa cộng sản như là phương tiện cứu dân cứu nước. Cho nên ít nhiều ông có tinh thần dân tộc hơn là đấu tranh giai cấp triệt để.

Ông từng trăn trở trong những năm cuối đời rằng ‘đất nước đã giải phóng được mấy chục năm rồi mà sao vẫn còn tụt hậu xa như thế?’

Tôi đã nghe một người họ hàng ông ở Lệ Thủy kể những khi về thăm quê ông thường kêu gọi ‘sáng tạo, đổi mới để phát triển hơn nữa’.

Nặng lòng với quê hương

Tôi cũng nghe câu chuyện của một người dân Đồng Hới cho tôi quá giang trở về từ Vũng Chùa rằng khi còn là học sinh có lần đã đón ông Giáp về thăm trường. Ông Giáp hỏi về Napoleon thì ai cũng biết nhưng hỏi ngọi núi cao nhất Quảng Bình thì không ai biết. Ông đã lấy điều đó ra để căn dặn các học sinh phải biết tường về quê hương đất nước.

Nếu ông muốn an nhàn lúc tuổi già thì chẳng dại gì ông lên tiếng về vấn đề bauxite vì biết sẽ làm lãnh đạo phật lòng. Nhưng ở vị trí của một nhà chiến lược quân sự, ông thấy rõ những hiểm họa đối với đất nước và thấy như thế thì ông không thể không lên tiếng.

Ông hơn hẳn nhiều lãnh đạo về hưu chỉ biết lo vun vén sao cho an nhàn tấm thân.

Tôi cũng nghe một người hàng xóm của ông ở Lệ Thủy kể rằng mỗi khi về thăm nhà ông thường gặp gỡ bà con rồi ‘cũng hò khoan Lệ Thủy’.

Một người yêu tiếng hát quê hương như thế chắc hẳn nặng lòng với quê hương đất nước.

Nhà ông Giáp ở Lệ Thủy

Ngôi nhà ở làng An Xá đã trở thành nhà tưởng niệm ông Giáp

Và cũng vì nặng lòng với quê hương mà ông đã chọn yên nghỉ ở nơi ‘lá rụng về cội’ chứ không phải ở một nơi danh giá mà nhiều người thường nói đùa rằng những ai vào được Bộ Chính trị ‘đã chắc một suất ở Mai Dịch’.

Ở nơi khuất nẻo thế chắc ông cũng không mong có nhiều người đến viếng. Sinh phần ông nhìn ra trời biển bao la, có nắng sớm, sương đêm, có gió lộng, trăng tà, có tiếng chuông chùa thanh tịnh. Ở nơi đó ông có thể ngàn năm nghe sóng vỗ, thiên thu ngắm trời xanh.

Rất may là Đảng đã tôn trọng di nguyện của ông – một di nguyện trong sáng không màng danh lợi.

Xuất thân là một thầy giáo dạy Sử, số phận đưa đẩy ông ra cầm quân đánh giặc. Ông từng nói một ngày nào đó hết chiến tranh ông sẽ trở về làm thầy dạy Sử như xưa.

Trong những năm bị hà hiếp, là một người có uy tín trong toàn quân ông hoàn toàn có thể huy động lực lượng làm một cuộc lật đổ để tiếm quyền.

Nhưng ông không có tham vọng quyền lực. Cốt lõi ông không phải là một chính khách. Ông không có cái gian hùng của Mao Trạch Đông hay Lê Duẩn để làm cho mọi người quy phục.

Ý Đảng và lòng dân

Theo lý mà suy thì một nhân vật cộng sản trong sáng như ông Giáp có thể giúp Đảng lấy lại niềm tin đã quá sa sút của người dân vào lý tưởng cộng sản và sự lãnh đạo của Đảng. Đảng càng phải ra sức tuyên truyền về tấm gương ông Giáp mới phải.

Tuy nhiên thực tế dường như diễn ra theo chiều ngược lại.

Ở đây tôi thấy khoảng cách khá rõ giữa ý Đảng và lòng dân trong cách đánh giá ông Giáp.

Khi ông Giáp vừa qua đời, trên mạng tràn ngập những lời ca tụng ông. Sự tôn sùng đến mức đẩy ông đến gần với vị lãnh tụ khai quốc là ông Hồ Chí Minh.

Ông được gọi là ‘Người’, một cách xưng hô đầy tôn kính vốn chỉ dành cho ông Hồ. Có nhiều người còn gọi ông là vị ‘cha già dân tộc thứ hai sau Bác Hồ’. Có người coi ‘ông và Bác Hồ là hai nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại’.

Nhưng Đảng không thích điều này.

Tôi có thể hiểu được chỗ khó xử của Đảng: nếu tôn vinh ông Giáp lên mức gần ngang hàng với ông Hồ thì những lãnh tụ khác của Đảng như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng sẽ đặt ở đâu?

Do đó, không khó để nhận ra nỗ lực của Đảng đưa mọi thứ về lại trật tự.

Thật ra việc đài truyền hình trung ương không truyền hình trực tiếp về lễ viếng ông Giáp cũng không có gì là lạ bởi lẽ trước đây lễ viếng của các ông Võ Văn Kiệt và Phạm Văn Đồng cũng có trực tiếp đâu.

Tuy nhiên tôi nghe nhiều ý kiến người dân phản đối. Rõ ràng họ muốn ông Giáp phải được đối xử đặc biệt hơn so với những vị kia.

Với lại trong nội bộ Đảng không phải ai cũng đánh giá cao ông Giáp, ít nhất là công khai.

Lễ viếng và lễ truy điệu có đủ mặt bá quan văn võ cả đương chức lẫn cựu trào nhưng không thấy Đại tướng Lê Đức Anh, cựu chủ tịch nước.

Nếu nói tuổi già sức yếu thì ngay cả ông Đỗ Mười chân yếu, tay run hay ông Vũ Khiêu ngồi xe lăn vẫn đến viếng.

Nếu biết rằng ông Anh quá yếu không đến viếng được thì tại sao trên bảng điện tử thông báo tôi thấy ghi rõ ràng sau lượt viếng của các cựu tổng bí thư là đến lượt ông Lê Đức Anh?

‘Công của tập thể’

Các lãnh đạo chờ viếng

Toàn bộ lãnh đạo đương nhiệm và về hưu đều đến viếng ngoại trừ ông Lê Đức Anh

Nỗ lực đưa vị trí ông Giáp trở về đúng trật tự có thể thấy rõ trong điếu văn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Một mặt điếu văn ca ngợi ông Giáp có ‘những cống hiến đặc biệt xuất sắc’ và ‘mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc’ nhưng một mặt nhấn mạnh rằng ông Giáp chỉ là một người trong một tập thể chứ không phải vĩ nhân vượt trên tất cả.

Chỗ nào có nhắc đến công trạng của ông Giáp thì cũng không quên nhắc nhở rằng chiến công đó nằm trong sự lãnh đạo của ‘Trung ương Đảng và Bác Hồ’.

Ông Giáp được cho chỉ là ‘một trong những người tiêu biểu’ trong ‘một tập thể cán bộ lãnh đạo tài năng, dày dạn’.

Xét trong lịch sử lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì những lời lẽ nói trên cũng là công bằng.

Tuy nhiên, sẽ không công bằng khi điếu văn về ông Giáp mà lại không làm nổi bật vai trò chỉ huy chiến lược của cá nhân ông trong chiến thắng Điện Biên Phủ.

Mặc dù chiến thắng đó đúng là công sức của ‘toàn Đảng, toàn dân, toàn quân’, nhưng với vai trò là tổng tư lệnh tối cao, ông Giáp linh hồn của chiến thắng chứ không thể chỉ dừng ở mức ‘góp phần’ như Điếu văn đã nêu.

Đối với ai muốn đặt ông Giáp lên gần ngang hàng với ông Hồ thì điếu văn nói rất rõ là ông Giáp ‘được sự giáo dục, rèn luyện’ của ông Hồ.

Ngay cả danh tiếng quốc tế của Tướng Giáp thì điếu văn chỉ nhắc đến việc ông tạo cảm hứng cho các nước thuộc địa Á, Phi, Mỹ Latin chứ không hề nói đến tiếng tăm của ông ở các nước phương Tây.

Bản thân tôi không tin rằng tiếc thương của người dân về một tấm gương cộng sản như ông Giáp sẽ càng khiến người dân tin vào Đảng. Ngược lại, nó chỉ càng thể hiện sự bất mãn của người dân.

Hai người phụ nữ chia sẻ với tôi ở 30 Hoàng Diệu còn nhấn mạnh rằng ‘các lãnh đạo Việt Nam hiện nay không ai được như ông Giáp’.

Rõ ràng khi người dân bất mãn với các cán bộ hư hỏng bao nhiêu thì họ càng thương tiếc sự ra đi của một người chính trực bấy nhiêu.

Người xưa năm cũ

Các lãnh đạo chờ viếng ông Giáp

Các lãnh đạo Đảng một thời được cho là không nghe theo lời góp ý của ông Giáp

Đảng cũng thấy được điều đó. Điếu văn của Tổng Bí thư đã liên hệ tấm gương ông Giáp với vấn đề thời sự hiện nay là chỉnh đốn Đảng.

Tuy nhiên, thế hệ của ông Giáp là những người sống trong hang đá, ăn cơm rừng, uống nước suối, còn quan chức bây giờ mấy ai không nhà cao cửa rộng, cuộc sống phủ phê.

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân do ông Giáp chỉ đạo ngày xưa là từ nhân dân mà ra và chiến đấu vì lợi ích của nhân dân.

Còn quân đội bây giờ phải bảo vệ Đảng trước tiên rồi mới đến bảo vệ người dân.

Thật ra với hơn 20 năm lui về an dưỡng ông Giáp hầu như không còn liên hệ gì với cuộc sống của người dân hiện nay ngoài ý nghĩa như một biểu tượng lịch sử.

Sự tiếc thương ông rồi cũng mau chóng trôi qua và ông cũng sẽ chỉ còn trên sách sử.

Đồng nghiệp của tôi bên BBC World News, anh Jonathan Head, nhận xét rằng ngay sau đoàn linh cữu ông Giáp vừa đi qua chừng 5 phút thì người dân Hà Nội lại trở về với cuộc sống như không có việc gì xảy ra. Có những cô gái còn xúng xính áo váy đi mua sắm.

Còn tôi khi ở Quảng Bình về Hà Nội một ngày sau đó thì không thấy bất kỳ dấu vết gì của một Quốc tang mới hôm trước. Cờ rủ ở sân bay Nội Bài đã được thay bằng quốc kỳ hai nước Việt Nam-Trung Quốc song song.

Người chết dù sao cũng đã chết còn cuộc sống đương nhiên vẫn phải đi tới.

Nhưng ngay cả trong lúc quốc tang, tôi đã thấy các cơ quan Đảng trên đường Hoàng Văn Thụ có nơi treo cờ rủ có nơi không ngay sau khi Quảng trường Ba Đình đã rủ cờ.

Chân dung ông Giáp được bày bán

Một số người ở Hà Nội nói rằng họ mua chân dung ông Giáp về ‘để thờ’

Có lẽ họ bận việc quá nên chưa kịp rủ cờ chăng? Nhưng một việc quan trọng như thế thì làm sao cơ quan Đảng có thể lơ là được? Điều này ít nhiều chứng tỏ ông Giáp không còn ảnh hưởng gì đối với chính quyền hiện tại.

Ở phạm vi quốc tế cũng vậy, đối với nhân vật tiếng tăm như ông Giáp, tôi chờ đợi các đoàn khách quốc tế đến viếng nhưng ngoài các nước châu Phi hâm mộ ông Giáp như Mozambique và Algerie chỉ gửi phái đoàn cấp thấp và phái đoàn cấp cao của các nước Lào, Campuchia, không còn phái đoàn quốc tế nào đáng lưu ý.

Điều đó chứng tỏ ông Giáp là một nhân vật xưa cũ đã mấy chục năm không còn liên hệ gì với cuộc sống hiện nay trên thế giới.

Cầm quân và cầm quần

Dẫu sao ông Giáp cũng là con người bình thường và cũng có những sai lầm.

Trên các diễn đàn mạng tôi có đọc được một ý kiến thế này: “Một lãnh tụ vĩ đại (chỉ ông Hồ) và một nhà yêu nước vĩ đại (chỉ ông Giáp) mà để lại một đất nước tham nhũng vĩ đại.”

Nghe chua chát nhưng không phải không có phần chính xác.

Nếu như ông Giáp ra đi khi mà đất nước mà ông góp công sáng lập và bảo vệ được hùng cường và thịnh vượng thì chắc chắn vị thế của ông trong lịch sử dân tộc và trong mắt bạn bè quốc tế cũng được nâng lên đáng kể.

Ít nhất tôi tin rằng hiện tình đất nước ngày nay không phải là điều ông mong muốn. Bản thân ông vẫn tin rằng con đường mà ông đã đi là tốt cho dân cho nước.

Cho nên sẽ là khiên cưỡng khi tìm cách liên hệ ông Giáp, một người đã đi theo Đảng từ lúc trai trẻ cho đến cuối đời, đã mất vợ, đã ly tán gia đình cho lý tưởng, với phong trào dân chủ hiện nay.

Bàn thờ ông Giáp bên vệ đường

Lác đác bên đường từ Đồng Hới ra Vũng Chùa, người dân bày bàn thờ ông Giáp

Chắc hẳn ông cũng có suy nghĩ như nhiều người là ‘đường lối của Đảng không bao giờ sai, chỉ có thực hiện sai’.

Cũng có ý kiến cho rằng ông Giáp là một người ‘tàn nhẫn’ khi từng nói sẵn sàng hy sinh hàng ngàn sinh mạng để đạt thắng lợi.

Như thế thì không thể nói ông kế thừa tinh hoa đánh giặc của cha ông, vốn là ‘tướng sỹ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào’.

Nhưng tại sao tướng sỹ lại tôn kính ông như vậy? Với lại ông vẫn thường nhắc đến sự hy sinh của các chiến sỹ Điện Biên, chứng tỏ ông ý thức rằng danh vọng của ông là ‘dãi thân trăm họ làm công một người’.

Còn về việc ông ít ra ra mặt trận, nếu xét ông vốn là trí thức đọc sách, mang họ Võ nhưng lấy tên Văn, thì sẽ thông cảm với ông hơn.

Và cũng sẽ thông cảm với ông hơn nếu đặt bản thân vào hoàn cảnh của ông trong câu chuyện được phân công phụ trách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình.

Một vị tướng có chiến công mà phải làm việc đấy, phải chịu miệng đời thị phi ‘cầm quân, cầm quần’, chưa kể mất mặt với cấp dưới thì buồn lắm.

Tức giận thì ai gặp cảnh đó cũng tức giận, nhưng dằn được cơn tức thì không phải ai cũng làm được!

Ông có thể cầm quân khuấy động phong ba. Nhưng rồi toàn bộ cơ đồ ông góp công tạo dựng sẽ tiêu tan.

Ở đây tôi không thấy ông Giáp có gì phải nhục nhã mà chỉ thấy sự hẹp hòi, đố kỵ không xứng đáng ở những vị lãnh đạo muốn hạ nhục ông.

Dẫu sao nghĩa tử là nghĩa tận. Sử sách và hậu thế sẽ đánh giá ông chính xác không sai trật.

Cầu cho xương thịt của ông hòa vào đất cát.

Cầu cho hồn phách của ông hòa vào anh linh của lớp lớp đồng bào tử sỹ trận vong để giữ gìn dải non sông gấm vóc này.

Nam Hà – Ông Đại Tướng với những hệ lụy từ chữ “Nhẫn”

Từ lâu, chúng tôi đã biết ông cất đi chữ “Dũng”, cái tính cách không thể thiếu ở một vị tướng khi đứng trước địch quân. Thế cũng phải, vì bây giờ là đối với đồng chí, nhưng ông cũng đã nhầm khi cho rằng trong quan hệ đồng chí không có tính đối kháng (?).
Lịch sử phong trào cộng sản, qua thực tiễn ở các nước anh em như Liên Xô và Trung Quốc, một khi đã vận dụng chuyên chính vô sản thì các mặt đối lập đều có thể mang tính đối kháng, chỉ có nhiều hay ít, nông hay sâu mà thôi.
Khi Lê nin xây dựng chính quyền công nông ở Nga, ông đã đưa đi đày không ít những người đã từng cùng hội cùng thuyền. Sau này ông Stalin cũng đã đưa đi đày khổ sai ở Sibêri biết bao người không đồng chính kiến. Ông cũng đã tiêu diệt cả một trung đoàn Ba Lan vì ông không tin vào sự trung thành của họ. Ngay cả đối với đồng cấp ở Trung Ương, Stalin cũng thẳng tay đàn áp…
Những ông Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, người bị tù đày đến chết hoặc bị giết cả nhà bằng đạn chống tăng, do bàn tay đồng chí Mao Trạch Đông, đâu có phải là chuyện lạ chuyện hiếm?
Ông tướng Giáp nhận thấy sự nguy hiểm khi bị các đồng chí đẩy về “phía bên kia”, nhưng ông không chọn con đường chống lại mà chọn chữ nhẫn. Cũng vì thế mà ông đã có thể thọ đến trên trăm tuổi. Trước những chèn ép, bôi nhọ, chơi xấu ngấm ngầm hay cả công khai, ông cũng đều áp dụng khẩu hiệu “ba không” (không nghe, không thấy, không biết), mặc dù cả ông và gia đình ông đều không lạ những thủ đoạn này.
…“Những thủ đoạn quen thuộc áp dụng để ngăn chặn ông ấy vào Trung Ương, chúng tôi đều biết quá rõ. Sắp đến Hội Nghị là thế nào cũng có một vài nghi vấn nêu ra đối với ông, sự việc điều tra đến hết hội nghị, thế là qua một nhiệm kỳ. Lần trước đánh ông ấy là một tay “bực thày” (Lê Đức Thọ), lần này thì chỉ là một tay học trò (Nguyễn Đức Tâm)…”
Cả đến câu vè về sự nghiệp của ông kết thúc ở “Cây Đa Nhà Bò” (Địa chỉ nhà Hộ Sinh phố Lò Đúc) ông cũng thuộc.
Ông Ba Duẩn một thời đi đến đâu cũng riễu “Võ Nguyên Giáp sợ Mỹ”, vừa nói vừa làm động tác run rẩy gây cười.
Ông Sáu Búa (tức Thọ, tức Khải) ngạo mạn phán rằng: “Còn để cho cái đầu Giáp ở nguyên trên cổ là may lắm rồi!”
Thật ghê sợ cho cái quan hệ giữa những người cộng sản.
Xử thế, trong trường hợp này, chữ Nhẫn chỉ cứu được mình ông, còn số phận biết bao người, từ những cộng sự thân tín, đến những người công khai ủng hộ ông đều chung một số phận kết cục đầy nghi vấn. Những Đặng Kim Giang, Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lê Liêm, Đỗ Đức Kiên Võ Văn Kiệt v.v… và những cộng sự ở những cấp thấp hơn đều chung một sự đầy ải, với những kết cục xấu số.
Ông Đại Tướng bị đồng đội vô hiệu hóa khi năng lực phục vụ đất nước của ông còn có thừa, đó là một sự đáng tiếc, một sự mỉa mai.
Cái ngày lịch sử, ông đứng ra thành lập Đội Việt Nam Truyên Truyền Giải Phóng Quân, 22 tháng 12 năm 1944, sau này lấy làm ngày Thành Lập Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, cũng bị chèn vào thành ngày Quốc Phòng Toàn Dân, có nghĩa rằng người ta đã từng bước bôi xóa bớt những gì liên quan đến ông. Năm 1994, kỷ niệm 40 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ, dự Mít tinh tại Điện Biên Phủ là hai ông Nguyễn Khánh (Phó Thủ Tướng) và Đoàn Khuê (Đại Tướng). Ông chỉ được vi hành thăm Mường Phăng, mà cũng phải đợi hơn nửa ngày mới có tàu bay. Không ai nhắc đến ông Đại Tướng, duy chỉ có ông Võ Văn Kiệt dám đứng lên biểu dương tướng Giáp ở cuộc Mít tinh tại Hà Nội.
Năm đó vì tự hào và cũng vì tự ái là Chiến sĩ Điện Biên Phủ, chúng tôi bỏ tiền túi ra rủ nhau làm bộ phim tài liệu 5 tập “Chín năm làm một Điện Biên”. Khi thông qua, được ông khen là nhiều tư liệu quý và đẹp nhưng ông cũng dặn dò: “Nhân chi sơ, tính bản thiện, con người vốn tốt, nhưng vì chưa hiểu hoặc không hiểu mình, nên có thể không ủng hộ mình thậm chí chống lại, vì vậy việc xã hội hóa phim náy, nên thận trọng”
Ông còn dặn thêm: “Lúc này họ còn mạnh lắm, thận trọng vì không chỉ kỷ luật đâu mà còn có thể tù tội nữa đấy!”.
Không phải đợi đến sau này khi những kiến nghị của ông về Tổng Cục II về bauxite, về nhà Quốc Hội về sát nhập Hà Đông của ông không được những nhà lãnh đạo đương thời quan tâm, thậm chí họ còn bỏ ngoài tai… mà ngay trong tang lễ ông Phạm Văn Đồng ông đã bị những quan chức vào tuổi con cháu chen bật mãi ra đằng sau. Có ai nghĩ rằng ông là người đồng chí thân cận cuối cùng của bộ ba Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Không ai nhường ông đi gần ông Đồng trong giây phút thiêng liêng tử biệt. Đối với người Việt Nam đó là một hành động vô đạo lý mà họ đã vô tư đối xử với ông.
Tuy chậm, nhưng lúc này đây, ông Đại Tướng của chúng ta đã theo lối ngựa ông Thánh Gióng, ông bỏ lại tất cả từ sự thương yêu đến lòng ghét bỏ, cũng không đợi thêm bất kỳ sự vinh danh nào. Ông đã là, chỉ là và mãi mãi là Đại Tướng, nhưng là một ông Đại Tướng không gì so sánh được. Riêng tôi còn mừng là ông đã rũ bỏ được Chủ Nghĩa Cộng Sản với lòng đinh ninh một nghịch lý “Kinh tế Thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Vĩnh biệt người “Cộng Sản Lý Thuyết” cuối cùng của “Phái Việt Bắc”.
Trước dòng người tràn ra vô tận đối với thời gian và không gian tiễn biệt ông, chúng ta hẳn thấy rằng với bất kỳ khó khăn nào của đất nước, chúng ta cũng sẽ dễ dàng vượt qua, nếu chúng ta đạt được tỷ lệ đồng lòng của dân chúng như hôm nay. Một hình ảnh làm cho những kẻ từng ăn nói và đối xử xàm xỡ với ông hẳn lấy làm hổ thẹn. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều nhưng không vội nói gì vì không muốn làm vẩn đục không khí thiêng liêng của mọi người thương tiếc ông. Chỉ có một chút phân vân:
Giá như Anh Văn bớt Nhẫn đi một chút thì tình hình bây giờ đã có thể khác.
Điều cuối cùng tôi muốn nói là trong điếu văn của ông Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam đọc trước linh cữu Tướng Giáp, ông cũng đã bắt chước mọi người gọi ông Võ Nguyên Giáp là “Anh Văn”, xong hình như danh xưng đó không phải dành cho những người đã từng chối bỏ lời Anh Văn lúc sinh thời thiết tha kiến nghị với Đảng với Nhà Nước. Phải không anh Nguyễn Phú Trọng?

Línhgià Nam Hà
Tác giả gửi cho X-Cafevn từ HN
(X-cafevn)

Ngô Nhân Dụng – Tấm gương Võ Nguyên Giáp

Một nhà báo ngoại quốc, ông Jonathan Head, đến Việt Nam quan sát và tường thuật đám tang ông Võ Nguyên Giáp cho đài BBC, nhận xét rằng trong số những người đến bày tỏ lòng thương tiếc và ngưỡng mộ ông, ngoài các cựu chiến binh lớn tuổi còn có hàng ngàn thanh niên, nhiều người chưa ra đời khi ông Giáp bị gạt ra khỏi Bộ Chính Trị đảng cộng sản năm 1982.
Jonathan Head viết: “… những hàng dài thanh niên với nét mặt buồn bã chẳng kém vẻ mặt của các cựu chiến binh.” Nhưng Head cũng nhận xét, “Những khẩu hiệu Marxist cũ rích vẫn được đảng Cộng sản Việt Nam rao giảng nhưng không còn gì hấp dẫn với thế hệ trẻ, vốn đã biết sống theo khuynh hướng xã hội tiêu dùng; và biết những cơ hội mà kinh tế thị trường mang lại cho họ.” Trong khi đó, thì “Tướng Giáp đã luôn trung thành với các khẩu hiệu cũ rích đó… Ông không bao giờ đi chệch đường lối chính sách hay nói về bất cứ nghi ngờ hay mối lo khủng hoảng nào của chế độ… Thay vào đó, ông vẫn hùng hồn nói về quy luật tất yếu lịch sử là chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng kinh tế tư bản.”
Võ Nguyên Giáp luôn luôn đóng vai trò một đảng viên cộng sản gương mẫu, tức là lúc nào cũng tin tưởng ở lý thuyết cộng sản và chấp nhận tất cả các quyết định của đảng, như trong mục này đã viết. Nhưng giải thích như vậy cũng không đầy đủ cho câu hỏi, như Huỳnh Thục Vy mới viết, tại sao ông Giáp “lặng thinh một cách vô cảm” trong nhiều trường hợp đáng lẽ phải lên tiếng.
Ông Giáp tuân theo lệnh đảng trước mọi quyết định đối với cá nhân. Vì vậy, ông cắn răng cam chịu khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ tước hết quyền hành. Ông Giáp vẫn giữ chức tổng tư lệnh, bí thư Quân Ủy Trung Ương; còn làm phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng, ủy viên Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam cho đến năm 1975 nhưng nhiều người chỉ có Lê Duẩn chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam. Ông mất chức bí thư Quân Ủy năm 1977, mất chức bộ trưởng Quốc Phòng năm 1980, rồi năm 1982 bị loại khỏi Bộ Chính Trị.
Sau đó, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn công khai làm nhục ông khi phong Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Ủy Ban Dân Số và Sinh Ðẻ Có Kế Hoạch, tức chương trình hạn chế sinh sản, còn gọi là cai đẻ. Với chức vụ tổng chỉ huy chiến dịch cai đẻ của ông, dân miền Bắc đã đặt câu ca dao chế nhạo: “Ngày xưa đại tướng cầm quân – Ngày nay đại tướng cầm quần chị em – Ngày xưa đại tướng công đồn, vân vân.”
Không ai nghe ông Giáp than phiền lời nào khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ hạ nhục trước mặt cả nước như thế. Nhưng trong chín năm làm phó thủ tướng phụ trách khoa học, kỹ thuật, từ 1982 đến 1991, cũng không ai thấy nước Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể nào về khoa học, kỹ thuật. Ngay cả việc sinh đẻ có kế hoạch cũng không ra gì; bằng cớ là dân số Việt Nam đã tăng vọt từ đó tới nay.
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ là những người đồng thời với Võ Nguyên Giáp, dù địa vị thấp hơn nhiều. Ông chịu thua họ, cũng là điều chấp nhận được. Nhưng sau đó, cả đám thuộc hạ hàng thứ ba, hạng tư, như Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười lại hạ nhục ông Giáp thêm một lần nữa. Họ phổ biến các tài liệu tố cáo ông từng là con nuôi của chánh sở mật thám Ðông Dương, Louis Marty; từng bán bí mật quân sự cho Ðại sứ Liên Xô Serbakov; còn trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ thì Giáp hèn nhát, sợ chết, quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài (Gần đây, ông Bùi Tín xác nhận rằng hầm trú ẩn của ông Giáp khá an toàn, nằm ngoài tầm trọng pháo của quân Pháp). Ðó là chưa kể cái tội ăn nằm với một cô giáo tới nhà dạy piano. Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đã đuổi Võ Nguyên Giáp ra khỏi Trung Ương Ðảng, một hành động trước đó Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn tha, chưa nỡ tước bỏ. Bọn Lê Duẩn lột bỏ mũ mãng của Giáp nhưng còn cho mặc cái quần; bọn Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh lột hết. Trong mấy chục năm, Bộ Chính Trị đặt ra những chức cố vấn. Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công, vân vân, rồi sau này tới Võ Văn Kiệt, Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đều được mời vào chức cố vấn; nhưng không ai ngó tới Võ Nguyên Giáp.
Võ Nguyên Giáp không bao giờ phản đối, cũng không hề cất tiếng than phiền về thân phận của mình. Lúc bị hạ bệ, đẩy xuống phụ trách việc cai đẻ, ông Giáp có thể từ chức, về hưu, vì đã ở tuổi 70 rồi, để tỏ thái độ, và giữ gìn danh tiết của một con người, nhất là của một ông tướng. Nhưng ông không dám cãi. Thái độ chịu đựng đó cũng thấy trong vụ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ phát động “Vụ Án Xét Lại Chống Ðảng.” Họ nhắm vào ông Giáp nhưng không đánh trực tiếp, mà tấn công vào những người đồng chí trung thành của ông: Thượng tướng Chu Văn Tấn, tư lệnh Quân Khu Việt Bắc; Thiếu tướng Ðặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ; Tướng Lê Liêm; Trung tướng Trần Ðộ; người tiếp nhận việc đầu hàng của tướng de Castries; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên cục trưởng tác chiến; Ðại tá Phạm Quế Dương; ông Hoàng Minh Chính; Ðại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Tổng Tham Mưu, trưởng đoàn quân sự Việt Nam trong hội nghị Trung Giá; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên; Ðại tá Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục Quân Báo; Ðại tá Nguyễn Văn Hiếu chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng; và Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, vân vân. Tất cả bị vu cáo tội “chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài.” Võ Nguyên Giáp biết những lời cáo buộc đó đều là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, không bênh vực, không bảo vệ, hay giúp đỡ những đồng đội trung thành đang bị bè lũ cầm quyền đàn áp.
Thái độ “chui trong hầm trú ẩn” của ông không biểu lộ trong đời tư mà thôi; trong cả việc công cũng vậy. Ông Giáp không nói một lời nào khi các chính sách kinh tế của đảng làm dân tộc kiệt quệ, nhiều nông dân chết đói, trong lúc ông đang làm phó thủ tướng. Gần đây, ông không hề lên tiếng khi đảng cộng sản đàn áp dân Việt Nam biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm Biển Ðông và đánh giết ngư dân Việt Nam. Ông không bàn một lời nào đến nạn tham nhũng lan tràn, hoàn toàn im lặng khi các nông dân mất ruộng, mất nhà đi biểu tình phản đối khắp nước. Việc ông lên tiếng về vụ bô xít giúp người ta nhớ đến ông; nhưng sau đó ông lại tiếp tục chui xuống hầm; bị coi là chỉ “đánh trống bỏ dùi.” Trước sau, ông Võ Nguyên Giáp vẫn chui dưới hầm, ngoài tầm pháo kích của các đồng chí đang nắm quyền sinh sát.
Giải thích thái độ im lặng của ông Giáp bằng tinh thần kỷ luật của một đảng viên trung kiên thì không đủ. Nhiều đảng viên và tướng lãnh đã từng lên tiếng phản đối chính quyền cộng sản tham nhũng, lệ thuộc Trung Cộng, và bất lực về kinh tế.
Các tướng Trần Ðộ, Nguyễn Văn Vịnh, Ðại tá Phạm Quế Dương, họ đâu có cam ngậm miệng khi thấy lòng dân phẫn uất?
Cho nên, ông Võ Nguyên Giáp lựa chọn chui xuống hầm chỉ vì lo cho chính ông, và con cháu ông.
Ông Giáp biết các đồng chí trong đảng Cộng sản không từ bỏ một thủ đoạn nào khi họ cần bảo vệ quyền hành. Họ cướp được chính quyền là nhờ dám giết người nhiều hơn, tàn bạo hơn những đối thủ chính trị của họ. Chính ông đã chỉ huy các vụ tàn sát các đảng phái quốc gia yêu nước trong năm 1946; ngụy tạo vụ Ôn Như Hầu để bắt, giết các chiến sĩ Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Dân Chính, những người thoát chết phải sang Trung Quốc lưu vong. Ông đã biết rằng trong đảng bất cứ ai cũng có thể bị thủ tiêu. Ông biết những cái chết bất đắc kỳ tử mờ ám của bộ trưởng Dương Bạch Mai hay Ðại Tướng Hoàng Văn Thái. Sống trong chế độ cộng sản, không ai được an toàn. Ngay sau khi Lê Duẩn chết, các con ông ta còn hỏi Phó Thủ tướng Trần Duy Thành: Liệu “họ” có giết chúng cháu không; theo lời ông Thành kể trong hồi ký.
Mối lo lắng của ông Võ Nguyên Giáp được biểu lộ ngay cả khi chữa bệnh. Bác sĩ Phạm Văn Ngà, người săn sóc sức khỏe cho ông trong 30 năm, kể rằng: “Ðại tướng có một nguyên tắc bất di bất dịch là không bao giờ uống thuốc của ai đưa cho, kể cả con cái, trừ Bác sĩ Ngà.”
Nhờ biết thân, biết phận, giữ mình như vậy, ông vẫn được chế độ hậu đãi. Ông được cung cấp đủ dinh thự, xe cộ, phụ tá, nhân viên văn phòng, bác sĩ, y tá thường trực, vệ sĩ, người giúp việc, và mọi thứ bổng lộc, phụ cấp. Vì ông biết giữ mồm giữ miệng. Lâu lâu ông lại được các thuộc cấp cũ còn tại chức mời dự tiệc, liên hoan, để thấy mình vẫn còn được trọng vọng. Nhưng luôn luôn giữ mồm, giữ miệng; không nói một lời nào “chệch hướng.” Trong đời tư, ông được người ta kính trọng vì lối sống đơn giản, không chạy chọt cho con em làm giầu quá đáng, như các quan chức lớn khác. Ðó cũng là điều Jonathan Head coi là lý do tại sao nhiều cựu chiến binh và giới trẻ còn ngưỡng mộ, đi viếng tang Tướng Giáp.
Nhà báo Jonathan Head viết: “Ông là người giản dị, lịch thiệp và sống đơn giản, họ nói với tôi.” Lời giải thích này khiến Jonathan Head thấy những người dân đi viếng tang ông Giáp là để phản kháng đám lãnh tụ cộng sản đang cầm quyền, một cách gián tiếp. “Những phẩm chất họ ngưỡng mộ nơi ông cũng chính là điều khiến họ bất bình cực độ với giới lãnh đạo hiện nay. Những người đó đã để nạn tham nhũng và trục lợi cá nhân hoành hành; những người đó không đủ cứng rắn khi đối phó với Trung Quốc,” vân vân. Jonathan Head kết luận, “Sau khi chết, ông Giáp lại được người dân nhìn nhận như một biểu tượng của tất cả những gì mà các lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay không có.” Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang chắc cũng hiểu được thông điệp này. Phản kháng một cách gián tiếp chắc không đủ để bọn họ chuyển lòng, chú ý đến lợi ích của dân Việt Nam hơn. Nhưng trong đám tang ông Giáp, người dân làm được tới đó là quý lắm rồi. Bởi vì con người ông Giáp không thể nào khích lệ cho ai đứng lên phản kháng một cách mạnh mẽ hơn được. Chính ông là tấm gương nhịn nhục, chịu đựng suốt đời, để được sống an thân, khi chết thì được nghe điếu văn, truy điệu. Chắc chắn đó không phải là một tấm gương cho những thanh niên thời nay, như Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Uyên Phương!
Ngô Nhân Dụng
(Người Việt)

“Dân chủ” kinh dị

Trong một vụ án hình sự gần đây, khi kẻ phạm tội lạm dụng tình dục bị bắt quả tang, các cán bộ điều tra đã rất vất vả vận động các cô gái bị lạm dụng khai về những hành vi xấu xa của kẻ thủ ác. Lý do các cô không khai vì các cô xấu hổ, các cô không muốn để danh tiếng của mình bị vấy bẩn. Đó là một phần văn hóa Việt, coi trọng trinh tiết phụ nữ. Ấy vậy mà gần đây có mấy sự ồn ã của mấy người nhân danh đấu tranh cho dân chủ làm cho người ta kinh sợ. Kinh sợ vì không biết họ nhận được những khoản vật chất nào mà họ tự bịa đặt, tự bôi nhọ danh tiết của mình để cố vu khống cho các chiến sĩ an ninh, cho Nhà nước.
Đầu tiên là sự việc của một cô gái 20 tuổi. Cô ta đã bị tuyên án tù cho hưởng án treo nhưng tự động đi khỏi nơi cư trú, không báo cho các cơ quan chức năng địa phương. Dĩ nhiên các cơ quan bảo vệ pháp luật phải cưỡng chế đưa cô về địa phương thụ án. Khi đưa cô ra sân bay, cô không chịu vào phòng cách ly để ra máy bay. Các chiến sĩ an ninh sân bay phải kéo cô vào cho kịp chuyến bay. Lúc đó có mặt hàng trăm hành khách đi cùng chuyến bay, lại có cả ông bố hờ nhảy cả vào phòng cách ly can thiệp. Ấy vậy mà về đến nhà, cô và ông bố hờ đầy nghi vấn lên mạng vu khống các chiến sĩ tại thời điểm đưa cô lên máy bay đã “bóp”… cô. Lạy trời, trước mặt hàng trăm người, với cô gái này? Quả là đáng kinh sợ. Lẽ ra với một cô gái 20 tuổi, chưa chồng và như cô tự bạch là chưa có người yêu, trinh tiết và danh tiếng về sự trong trắng đàn bà của cô phải được giữ gìn, vậy mà tự mình bịa đặt và lu loa mình bị xâm hại tình dục thì ghê gớm thật. Còn ông bố hờ thì cũng ra sức khẳng định cô “con nuôi” của mình đã bị xâm hại. Trên mọi diễn đàn ông ta luôn chứng minh cô gái đã bị… và mở cuộc truy tìm người đã… “bóp” cô gái. Dĩ nhiên không phải đi tìm người bị xâm hại để bắt phải lấy cô ta mà chỉ để vu khống bôi nhọ.

Nhưng chuyện ấy cũng chưa phải là tột cùng. Gần đây có một cặp vợ chồng thông báo là chị vợ bị một nhóm “xã hội đen”, ám chỉ các chiến sĩ an ninh đã bắt cóc cô vợ, đánh đập, cướp tiền và quan trọng hơn cả là đã âm mưu tiêm thuốc độc và… hiếp dâm chị ta để bắt chị ta phải thay đổi quan điểm chính trị của mình, không chống đối Nhà nước nữa. Kinh sợ hơn, anh chồng tuyên bố thương vợ hơn vì vợ đã bị… hiếp dâm nhiều lần. Chứng cứ mà vợ chồng anh ta đưa ra là một lô tin nhắn đe dọa hiếp dâm. Ở trường hợp này thì không thể kêu trời được nữa. Có lực lượng nào lại dùng tin nhắn để vợ chồng nhà này lưu lại để rêu rao khắp nơi, tin nhắn lại nêu cả tên, cả hành vi… Vớ vẩn quá rồi. Nhưng cái chúng tôi nói đến là sự bất chấp các giá trị văn hóa, tình cảm của cặp vợ chồng nhà này. Không thể hiểu được thái độ của người chồng bịa ra vợ bị hiếp dâm nhiều lần rồi lu loa trên mạng, trên các diễn đàn và khi được một đài nước ngoài đưa tin, anh ta hý hửng ra mặt: Vợ anh bị hiếp dâm cả thế giới đã biết. Không biết hai vợ chồng có còn dám nhìn vào mắt nhau nữa không.

Sẽ có người nói chứng cớ nào cho sự bịa đặt. Thì đây, lu loa bị hiếp dâm nhưng khi công an địa phương mời đến khai báo để có tư liệu điều tra, hai vợ chồng còn ra điều kiện với cơ quan công an giúp hai vợ chồng tìm ra thủ phạm: Để được nghe cô vợ kể chuyện bị hiếp phải làm giấy mời cẩn thận, đưa đến tận nhà, hẹn giờ và đón tiếp cẩn thận. Không hợp tác với nhà chức trách tìm ra thủ phạm, mà cứ “bêu” ầm ầm trên mạng là hà cớ làm sao? Trí tưởng tượng được thôi thúc bởi sự thèm khát nổi tiếng thật kinh dị. Mà có chuyện gì đâu, có chứng cứ gì đâu ngoài mấy cái tin nhắn từ một số điện thoại giời ơi. Những số điện thoại sim rác các anh chị “dân chủ” có hàng trăm.

Ngô Trần
(ANTĐ)

Liệu sân bay Long Thành có thành Vina-airline ngập tham nhũng trong tương lai?

Dự án Sân bay Long Thành
 Vào ngày 17.10, báo Người Lao Động đưa tin, Bộ Giao thông Vận tải nhất quyết xây sân bay Long Thành. Theo dự án, sân bay Long Thành rộng 5.000 ha nằm tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, có chức năng trung chuyển trong khu vực Đông Nam Á. Với công suất 100 triệu lượt khách và 5 triệu tấn hàng hóa/năm, Long Thành có khả năng cạnh tranh với các sân bay lớn trên thế giới. Với khoảng mức đầu tư 7,8 tỉ USD.

Phuong Truong chán nản: “toàn đi vay nợ để quan hưởng rồi đè cổ bắt dân gánh là sao???”. Gà Tịt kêu lên: “tham nhũng nữa rồi”. Lê Khánh buồn phiền: “Đây là một trong những lý do làm nghèo đất nước….hic..hic..”.
Khi nhắc đến Vụ án kinh tế Tập đoàn Vinashin là một tập đoàn kinh doanh của nhà cầm quyền cs VN đã thất thoát hàng chục nghìn tỷ VND. Vẫn chưa thể thống kê đủ và hết những hậu quả nặng nề về kinh tế- xã hội do những con tàu Vinashin để lại. Tuy nhiên, các thống kê ban đầu cho thấy với hơn 4 tỷ USD thất thoát của Vinashin đã gấp 4 lần gói kích cầu của Chính phủ trong nỗ lực phục hồi kinh tế trong cơn khủng hoảng suy thoái năm 2008, gấp 3 lần tổng mức đầu tư cho chương trình xóa đói giảm nghèo cả nước – Theo Wikipedia.
Tổng số tài sản của công ty khoảng 90.000 tỷ đồng nhưng vay nợ tới hơn 80.000 tỷ. Với món nợ khổng lồ Vinashin này người dân VN từ em bé đến người già phải ì đầu ì cổ ra trả nợ bởi sự tham nhũng của nhóm lợi ích.
Trí tâm thất vọng nói: “Càng ngày càng có nhiều dự án thuộc nhà nước thấy không hiệu quả trước mắt nhưng vẫn cố tình làm ngơ, vẫn thực hiện cho bằng được bất chấp phản biện của nhân dân. Đó là do lợi ích nhóm, phần nhiều khi làm dự án người ta thường vẽ ra những viễn cảnh rất đẹp. Rồi sau đó ê chề với bao nỗi thất vọng vô cùng khi đó thì chuyện đã rồi và sai đâu sửa đó.” Trần Sơn lo lắng: “Hết cảng biển của Vinashin, Vinalines giờ lại đến sân bay của Vina airline chăng? Người dân sợ quá rồi, xin hãy lắng nghe các ý kiến phản biện. Mức đầu tư Bộ GTVT đưa ra hiện nay là 7,8 tỷ USD nhưng khi hoàn công, tui chắc là sẽ gấp ít nhất 1,5lần số đó, và với tình trạng kinh tế VN hiện nay thì 100% đó là tiền vay.”
Trong văn bản báo cáo Thủ tướng, Bộ GTVT cho rằng rất khó mở rộng để nâng công suất sân bay TSN vì thiếu đất và cần đến 9,1 tỉ USD để mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất (TSN), nên xây dựng sân bay Long Thành là giải pháp tốt hơn.
Trong khi đó, phần đất 157 ha trong sân bay TSN, thuộc khu vực quân sự cho thuê làm sân golf, xây tổ hợp khách sạn 5 sao và nhà hàng cao tối đa 12 tầng, khu chung cư cao cấp 8 tầng… Theo UBND quận Tân Bình, sân golf 18 lỗ này đang được xây dựng và sắp hoàn thành.
Mimi Mèo Nhe nói: “Vụ nào cũng khui ra be bét, nhưng mà cuối cùng cũng đều được cho chìm xuồng một cách nhẹ nhàng êm thắm không gợn tí sóng nào cả!”
UBND tỉnh Đồng Nai cho biết sẽ có khoảng 5.400 hộ dân bị ảnh hưởng và khoảng 3.000 hộ phải giải tỏa trắng để lấy đất xây dựng sân bay Long Thành.
Sự việc này có thể biến 5.400 hộ dân đang an cư trở thành dân oan không nhà không cửa. Điều này đã được minh chứng rõ ràng trong quá khứ, cụ thể vào hồi tháng 04.2012, chính quyền huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ra lệnh cưỡng chế thu hồi đất trên 500 mẫu của khoảng 4000 hộ dân để làm dự án khu đô thị-thương mại-du lịch Ecopark của công ty Đầu tư Bất động sản Việt Hưng. Người dân được đền bù 43000 đồng một mét vuông, một mức giá mà họ cho là quá rẻ mạt, quá bất công nên 1800 hộ ở ba xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao kiên quyết phản đối không chịu nhận tiền đền bù – Theo Báo cáo Nhân quyền VN 2012.
Tiếp đó, cuối năm 2007, chính quyền huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định đã muốn lấy 165 mẫu đất của dân ba xã Liên Minh, Liên Bảo và Kim Thái thuộc huyện Vụ Bản để bán cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam thực hiện dự án khu công nghiệp Bảo Minh. Nhưng những người có đất bị thu hồi không chấp nhận mức đền bù quá thấp, 120 hộ đã phản đối, không chịu nhận tiền đền bù và kiên quyết giữ đất mặc dù bị chính quyền dọa nạt, o ép đủ điều – Theo Báo cáo Nhân quyền VN 2012.
  (VRNs)

 

-Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm, TP Hồ Chí Minh: Vùng đất vàng bỏ hoang 17 năm xảy ra nhiều tiêu cực

Mời xem mấy phần đã bị “gỡ bỏ” ở DLB còn chép:     Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm: Vùng đất vàng bỏ hoang 17 năm xảy ra nhiều tiêu cực  —Kì 3: Khu đất vàng 160ha đất tái định cư bị đánh tráo?  –Kì 4: Đánh tráo quy hoạch, phá phách nhà dân (DLB)   —    Kỳ 1 & Kỳ 2

Nguoicaotuoi

Việc áp giá đền bù chỉ tính riêng đối với hơn 11.500 hộ dân nằm trong khu quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm (ĐTMTT) là trái với các nghị định của Chính phủ. Hầu hết nhà dân bị đập bỏ để thu hồi đất từ năm 2010 trở lại đây, nhưng không có phương án bồi thường được duyệt là làm trái Điều 28 Luật Đất đai 1993, trái với Điều 50 Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Việc bồi thường thiệt hại chỉ căn cứ các quyết định số 188/QĐ-UB ngày 28/7/2004 về sửa đổi, bổ sung quyết định số 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002 của UBND thành phố quy định về đền bù thiệt hại và quyết định số 773/QĐ-UB kí ngày 26/3/2003 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt đơn giá đất ở đối với khu ĐTMTT là trái với quy định của pháp luật.

Hội đồng Bồi thường GPMB Dự án Khu ĐTMTT vẫn căn cứ vào các quyết định sai để “chế biến” chiết tính bồi thường hỗ trợ thiệt hại, trình UBND quận 2 phê duyệt và chi trả là trái pháp luật, dẫn tới các mức giá bồi thường mập mờ, vô nguyên tắc, mất dân chủ, tiền hậu bất nhất. Ban đầu thì hỗ trợ đất mặt tiền 3 triệu đồng/m2, những hộ ở phía sau 2,6 triệu đồng/m2. Sau khi người dân gửi đơn khiếu nại thì nâng giá hỗ trợ đất ở lên 4 triệu đồng/m2 còn đất nông nghiệp chỉ 50.000 đồng/m2. Người dân khiếu nại thì đất ở được hỗ trợ lên 12 triệu đồng/m2. Dân tiếp tục khiếu nại thì chính quyền phải tăng lên 16,7 triệu đồng/m2. Tài sản hợp pháp của hàng chục nghìn hộ dân mà chính quyền quận 2 muốn ngã giá bao nhiêu thì tùy. Không thể có kiểu quy định về giá bồi thường mà mức cứ dao động đi lên theo “làn sóng” phản đối của người dân? UBND quận 2 và Ban Quản lí Dự án ĐTMTT đã áp dụng kiểu giá áp đặt, cửa quyền: Cứ mỗi lần dân đòi thì chính quyền quận nhích lên một mức khác; đất thì “đánh tráo” vị trí, đưa vào rồi lại rút ra; giá cả lên xuống liên tục. Số phận gần 3.000 căn nhà ở của dân đang sinh sống ổn định, nằm ngoài ranh quy hoạch không có quyết định thu hồi đất cũng bị cưỡng chế trái pháp luật, đập phá tan tành, áp đặt giá rẻ hơn cả những hộ nằm trong ranh quy hoạch.

Những khu đất vàng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm nay.

Những khu đất vàng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm nay.

Nhà, đất có chủ quyền  thì bồi thường thấp, nhà ẩn nấp pháp luật thì được đền bù cao?

Cùng một khu đất như nhau, có hàng nghìn căn nhà nằm ngoài ranh quy hoạch, được UBND thành phố Hồ Chí Minh bán theo Nghị định 61/CP sau khi khu ĐTMTT đã được quy hoạch, khi bồi thường giá lại thấp hơn những căn hộ sử dụng đất công thổ không có chủ quyền. Trường hợp nhà của bà Lê Thị Thu Hương ở C8/9, đường Lương Định Của, phường Bình Khánh, quận 2. Xây một trệt, một lầu 130,29m2 mà chỉ được bồi thường 2,5 triệu đồng/m2, phải bị trừ đi diện tích quy hoạch lộ giới để được cấp chủ quyền về nhà ở, đất ở. Còn hàng nghìn hộ khác không được cấp chủ quyền, phần diện tích quy hoạch lộ giới chưa bị trừ ra thì vẫn được bồi thường? Trước cửa nhà bà Hương và một số hộ dân khác có một khoảnh đất trống thuộc ranh quy hoạch lộ giới, UBND phường Bình Khánh, bất chấp luật pháp, tự tiện cho nhiều hộ dân đổ đất thuê mặt bằng làm cửa hàng kinh doanh để phường thu lợi. UBND phường buộc các hộ này kí cam kết: Khi nào Nhà nước giải phóng mặt bằng thì tự tháo dỡ di dời và không được bồi thường. Vậy mà khi giải tỏa thu hồi đất giao cho Dự án Khu ĐTMTT thì ông Chủ tịch UBND phường Bình Khánh vẫn kí xác nhận cho tất cả các hộ này nhận tiền bồi thường với giá cao hơn giá của những căn nhà có sổ đỏ? Ngoài được hỗ trợ di dời 16,7 triệu đồng/m2 những căn nhà được UBND thành phố Hồ Chí Minh bán và cấp chủ quyền hợp pháp, nằm ở vị trí mặt tiền thì chỉ được nhận số tiền hỗ trợ di dời 16 triệu đồng/m2 (thấp hơn 700.000 đồng/m2) họ còn bị trừ đi phần diện tích quy hoạch ranh lộ giới. Còn nhà chung cư giá từ 3,5 đến 6,5 triệu đồng/m2, hộ dân nào nhận mua nhà thì tiền hỗ trợ 16 triệu đồng/m2 cũng bị mất. Hai căn nhà của gia đình ông Lê Văn Lung có tổng diện tích 1.000m2 ở số 9, mặt tiền đường Trần Não thuộc khu phố 1, phường Bình An nằm ngoài ranh quy hoạch chỉ bồi thường 2,35 triệu đồng/m2 trong hạn mức 200m2. Diện tích 800m2 còn lại chỉ hỗ trợ giá đất nông nghiệp. Năm 1990, ông Lung đã được chính quyền cấp chủ quyền về đất ở (giá thị trường ở con đường này khoảng 100 triệu đồng/m2). Những khái niệm đất liền kề, đất trồng cây lâu năm… đều bị Ban Quản lí Dự án và UBND quận 2 bãi bỏ hết. Luật quy định về thẩm quyền giao đất và hạn mức giao đất, UBND quận 2 lại cho ra khái niệm, “hạn mức đất được bồi thường không quá 200m2”. Thật trớ trêu, những sai phạm của Chủ tịch UBND phường Bình Khánh là cố ý làm trái. Có lần ông Chủ tịch còn cởi áo tại trụ sở UBND phường xông vào đòi đánh dân, vò nát công văn của Văn phòng Chính phủ ném xuống đất, thách đố, chửi bới những người dân đi khiếu nại với lời lẽ vô văn hóa đã bị công luận lên án gay gắt, nhưng vẫn không bị xử lí mà còn được thăng tiến lên Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận 2. Gần 3.000 căn nhà nằm ngoài ranh quy hoạch khu ĐTMTT bị chính quyền quận 2 cưỡng chế trái phép, đập phá tan tành cần phải được xem xét, bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Trong 10 năm kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch (từ 1996 – 2006) UBND quận 2 mới có thư mời Trưởng khu phố trở lên dự họp triển khai quy hoạch tỉ lệ 1/5000 và quy hoạch chi tiết 1/2000. Trong 10 năm, UBND TP Hồ Chí Minh vừa tiến hành các bước chuẩn bị đầu tiên… vừa tiến hành “phân phối, cấp phát” hàng trăm héc-ta đất cho 64 doanh nghiệp, có 28 doanh nghiệp nằm gọn trong phần diện tích 637ha đã được quy hoạch khu ĐTMTT. Khu ĐTMTT bị xé nát vì bị thiếu hụt diện tích trầm trọng.

Một “chiến dịch” tìm kế chế biến để có đất lấp đầy khu ĐTMTT. Vì đất ở khu trung tâm đã phân phát mất quá nhiều nên muốn có đủ 637ha đất cho khu trung tâm thì phải tìm cách lấy đất của khu tái định cư lấp vào, nên tự nhiên khu tái định cư biến mất. Dựa vào 3 quyết định (số 1997, số 6565 và số 6566) có nội dung trái pháp luật do ông Vũ Hùng Việt kí, ông Tất Thành Cang, Bí thư kiêm Chủ tịch UBND quận 2; ông Nguyễn Cư và ông Nguyễn Phước Hưng, Phó Chủ tịch UBND quận 2 cùng nhiều Chủ tịch UBND các phường trong quận 2 tiến hành “chiến dịch” đập phá nhà dân gây hậu quả nghiêm trọng. Gần 3.000 căn nhà nằm ngoài ranh quy hoạch và hơn 1.000 căn nhà có chủ quyền được mua hóa giá theo Nghị định 61/CP cũng bị cưỡng chế đập phá oan trái. Nhà nước phải giải ngân 38.000 tỉ đồng từ nhiều năm trước, phải chịu 150 tỉ đồng tiền lãi/tháng trong nhiều năm nay. Một số người dân bị chết oan. Hàng nghìn héc-ta đất đô thị nằm cạnh khu trung tâm thành phố lớn nhất nước bị bỏ hoang suốt 17 năm nay.

Đề nghị Thủ tướng Chính phủ sớm có biện pháp chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành thanh kiểm tra và kiểm toán dự án này nhằm phục hồi quyền và lợi ích chính đáng cho người dân, giải quyết dứt điểm các “làn sóng” khiếu kiện vượt cấp kéo dài.

Thiên Thanh – Hải Đăng – Tùng Lâm – Thanh Hằng

Trần Thị Cẩm Thanh – Người H´ Mông 4 tỉnh phía Bắc đổ về Hà Nội đòi thả người

Danluan

Trần Thị Cẩm Thanh

Trong mấy ngày qua, trời Hà Nội mưa và gió lạnh, thông tin về những người H´ Mông bị bị công an quận Đống Đa đuổi ra khỏi nhà thờ trong đêm giá lạnh đã khiến cộng đồng không thể bàng hoàng, bàng hoàng vì tại sao con em nhân dân sau khi được tuyển vào ngành công an, ngành công an đã đào tạo họ như thế nào, môi trường sống và làm việc ra sao mà chúng nó lại trở nên tàn nhẫn như vậy,…

Sáng 9/10/2013 chúng tôi có mặt tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng để tìm hiểu sự việc, tìm hiểu xem người H’ Mông đã làm gì mà bị công an tìm cách xua đuổi ra khỏi Hà Nội như vậy,…..thì ra họ về thủ đô là để đòi người, những người bị bắt đi khi họ tham gia đấu tranh với chính quyền những mục tiêu sau của người H’ Mông.

1. Đấu tranh cho quyền làm chủ của người dân.

Theo trình bày của người dân H’ Mông tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng thì tất cả dân tộc H Mông sống trong 4 tỉnh phía Bắc là Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều bị đàn áp tàn nhẫn, cấm không cho sống đời sống văn minh mà bắt trở về với các thủ tục lạc hậu của dân tộc H’ Mông.

Người H’ Mông không nghe theo chính quyền địa phương bắt họ trở lại phong tục tập quán như xưa, đó là người chết phải treo trên tường 7 ngày 7 đêm và phải bón cơm, phải mổ trâu mổ bò ngồi ăn cùng với xác chết 7 ngày 7 đêm rồi vác xác chết đi chôn không quan tài, 13 ngày sau lại phải mổ trâu bò cúng ma, người H’ Mông không nghe theo chính quyền xã, huyện sống lại phong tục lạc hậu từ trước năm 1989.

Từ năm 1989 người H’ Mông thuộc 4 tỉnh phía bắc bao gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đã xây dựng cho mình một cuộc sống mới, từ bỏ phong tục cổ hủ, lạc hậu, họ đã thống nhất mỗi nơi làm một cái nhà nhỏ để đồ tang lễ để mỗi khi ai chết mang ra dùng.

Người H’ Mông không chấp nhận chính quyền và công an mang dùi cui điện và còng số 8 đến đàn áp, phá nhà tang lễ và đánh đập người dân, nhiều người bị bắt mang đi.

2. Đấu tranh cho sự thật, yêu cầu chính quyền phải trả lại tiếng thơm cho anh Dương Văn Minh.

Người H’ Mông rất biết ơn anh Dương Văn Minh trú quán thôn Ngòi Sen, xã Yên Lâm, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, anh Minh là người đã giúp người H’ Mông cải đổi đời sống. Người H’ Mông đã sống và thay đổi phong tục tập quán mới như trên từ năm 1989 là nhờ anh Dương Văn Minh, họ đã sống trong môi trường trong lành và đời sống khỏe mạnh, không còn ám ảnh bởi mà tà cúng tế, mổ trâu bò suốt 7 ngày 7 đêm nữa,…thế nhưng anh Dương Văn Minh lại bị công an bắt giam 5 năm tù với tội tổ chức tôn giáo trái pháp luật.

Người H’ Mông chính là nhân chứng cho sự thật, cho những việc làm của anh Dương Văn Minh, họ không chấp nhận việc chính quyền bóp méo sự thật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của nhân dân và đòi hỏi chính quyền phải trả lại tiếng thơm cho anh Dương Văn Minh, cấp bằng khen thưởng cho anh Dương Văn Minh, người đã mang lại cho dân tộc H’ Mông đời sống văn minh, thoát khỏi đói nghèo 25 năm nay.

Người H’ Mông yêu cầu chính quyền phải điều tra sự thật và truy tố những cán bộ làm sai pháp luật, bồi thường thiệt hại, trả lại những đồ tang lễ, không được phá nhà bảo quản đồ tang lễ để họ trở về với cuộc sống bình an và văn minh.

Ngoài ra người H’ Mông cũng thách chính quyền là nếu chính quyền bắt họ trở về với những phong tục lạc hậu thì đề nghị chính quyền phải cung cấp trâu bò, tiền, bạc, lợn gà, rượi, gạo….để họ cúng ma làm lễ, chính quyền về sống và cùng thực hiện cúng mà với bà con nhưng phải làm nhà treo xác riêng và chính quyền phải tự vác xác đi chôn. Nếu chính quyền làm được như trên thì họ sẽ quay về với tập tục lạc hậu (xem tại ảnh các ảnh chụp đơn tố cáo của người H’ Mông kèm theo cuối bài).

Trên đây là 2 lí do căn bản đã dẫn đến sự việc người H’ Mông bỏ nhà cửa, cuộc sống của mình về Hà Nội để đấu tranh đòi thả người, họ nói “khi nào chính phủ và nhà nước không bắt dân tộc này nữa, không làm cho dân tộc này hoàng mang lo sợ nữa thì chúng tôi sẽ về, tự nhiên chúng tôi sẽ về, chúng tôi có nhà cửa, có cuộc sống của chúng tôi chứ, chẳng qua không công bằng nên chúng tôi phải đi đòi hỏi” (nghe phát biểu của Ma Văn Pá và Lý Văn Anh người dân tộc H’ Mông)

 

http://youtu.be/HuwFJ-rNtBs

 

http://youtu.be/LV8HuuNxK58

Trong một tuần xuống Hà Nội họ lại tiếp tục bị công an tiếp tục đối xử tàn nhẫn, lại có thêm 2 người bị thương,… họ đến nhà thờ xin trú ngụ, nương nhờ trong đêm mưa gió nhưng bị công an quận Đống Đa đến yêu cầu ra vườn hoa…để ngủ.

Người H’ Mông ở Hà Nội đang bị công an gây cản trở, nhưng nghe họ phát biểu, tôi có niềm tin vào họ, một dân tộc thật thà và mạnh mẽ, họ đấu tranh với một niềm tin xác đáng rằng họ xứng đáng có được một cuộc sống dân chủ, văn minh như họ muốn xây dựng.

Sau đây là một số cảnh sinh hoạt của người H’ Mông tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng sáng ngày 19/10/2013












Tang lễ của lòng dân

Nguyễn Lễ

BBCVietnamese.com

Cập nhật: 13:18 GMT – chủ nhật, 20 tháng 10, 2013

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Việt Nam vừa trải qua một tuần lễ khác thường.

Trong vòng 100 năm qua, theo tôi biết, chỉ có ba lần người dân Việt Nam biểu lộ tình cảm ở mức độ to lớn như thế với lễ tang một cá nhân.

Đó là tang lễ của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1969 và khi hàng chục vạn người xuống đường ở Sài Gòn tiễn đưa chí sỹ Phan Chu Trinh vào năm 1925 – đánh dấu một dân tộc đã thức tỉnh sau hơn nửa thế kỷ quen với ách cai trị của người Pháp.

Và bây giờ là quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Xét tình hình Việt Nam hiện nay thì ít nhất trong mấy chục năm nữa cũng không có tang lễ nào đạt tầm vóc như thế.

Tuy nhiên, đối với một dân tộc có quá nhiều đau thương, thì việc tôn vinh người từng là một trong những tư lệnh của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn có thể khiến cho nhiều người đau lòng.

Dẫu sao ông đã nằm yên dưới ba tấc đất, mọi ân oán đối với ông cũng không còn ý nghĩa.

Hơn cả quốc tang

Từ mấy năm trước, khi dõi theo ông Giáp bước qua ngưỡng ‘thiên tuế’ rồi 101, 102, rồi khi chứng kiến lòng dân hội tụ về ông dâng cao qua từng năm, tôi tự hỏi một mai ông nhắm mắt xuôi tay thì không biết lòng dân sẽ ra sao?

Tình cảm tịnh tiến qua năm tháng đó trong phút chốc vỡ òa như nước lũ!

Nhà nước đã dành cho ông nghi thức tang lễ cao nhất mặc dù ông không thuộc vào hàng lãnh đạo chóp bu của đất nước.

Nhưng quốc tang ở Việt Nam thì không dưới cả chục lần. Gần đây nhất, tang lễ ông Võ Chí Công không để lại dấu ấn gì, còn khi các ông Võ Văn Kiệt và Phạm Văn Đồng qua đời người dân cũng tiếc thương nhưng chưa đến mức độ như thế.

Có quốc tang nào mà số cán bộ quan chức đi viếng hoàn toàn bị áp đảo bởi những người dân thường xếp hàng đến tận nửa đêm?

Ông Giáp tại tang lễ Phạm Văn Đồng

Ngay cả tang lễ ông Phạm Văn Đồng cũng không diễn ra ở quy mô như tang lễ ông Giáp

Có nhân vật nào được người dân đến viếng tại tư gia trong dòng người kéo dài không dứt từ ngày này sang ngày khác?

Có buổi tiễn đưa nào mà hàng ngàn xe biển trắng hòa vào dòng xe biển đỏ biển xanh làm nghẹt cả một đoạn đường quốc lộ?

Đám tang ông Giáp, do đó, theo tôi nghĩ, không còn là một quốc tang bình thường nữa. Nó đã trở thành tang lễ của nhân dân.

Có mặt ở Việt Nam vào những ngày quốc tang, tôi muốn tìm câu trả lời cho những nghi ngờ rằng: Người dân tiếc thương liệu có thật không? Tại sao họ yêu quý ông đến vậy?

Tôi đã thấy có người mang hoa đến nài nỉ lính gác đem vào trong dù lễ viếng tại nhà ông đã đóng cửa và hai bên lối đi trong sân đã rải đầy hoa.

Tôi đã thấy những người đàn ông và phụ nữ đứng bái vọng từ bên ngoài cánh cổng khép kín. Tôi cũng nhìn thấy những đôi mắt đỏ hoe.

Tôi đã thấy chân dung ông được bày bán ở nhiều nơi ở Hà Nội trong khi rất nhiều bạn trẻ mặc áo phông in hình ông.

Tôi đã thấy những người dân bán hương hoa ở đầu ngõ vào nhà ông ở Lệ Thủy giống như bán cho khách đi lễ chùa.

Tôi đã thấy đoàn dài các em nhỏ cỡ 9, 10 tuổi mặc đồ đen cầm cờ rũ bước đi trên con đường đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Tôi cũng thấy rất nhiều xe gắn máy cắm cờ đỏ buộc dải băng đen hòa vào dòng xe đưa tiễn và lác đác bên đường có chỗ bày hương án.

Tôi đã chứng kiến có người bỏ tiền mua nước đến phân phát cho đồng bào đưa tang trong cái nắng đổ lửa.

Tôi đã nghe câu chuyện một người dân bán một tạ thóc thuê xe chở cả gia đình đi tiễn ông chỉ để nhìn thấy linh cữu và thắp một nén hương.

Tôi đã hỏi thăm và nghe câu nói chân thành của một nam công nhân ngoài 30 tuổi ở Đồng Hới: “Hôm nay ông về quê. Tôi muốn tiễn ông đoạn đường cuối cùng.”

Tôi đã chứng kiến cảnh đói, khát, đi, đứng, nằm, ngồi vật vạ bên vệ đường trong lúc dòng xe kẹt cứng trên đường ra Vũng Chùa.

Tôi đã mua một bó hoa cúc ở Đồng Hới với giá 50.000 đồng, tức gấp đôi giá ở Sài Gòn hay Hà Nội, và được cho biết dù hoa đắt bằng cả một ngày chợ của dân nghèo mà vẫn không có hàng để bán mặc dù người dân Quảng Bình mới vừa bị bão đánh tơi bời.

Tại sao tôn kính?

Người dân bao nhiêu năm qua không được tập trung tuyên truyền về ông Giáp, hơn nữa họ có thể nghe được những thông tin trái chiều. Thế tại sao họ tôn kính ông đến vậy?

Xét về công thì tên tuổi ông được nhìn nhận rộng rãi gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ – một chiến công xét về ý nghĩa sánh ngang với Bạch Đằng, Chi Lăng hay Đống Đa.

Xét về chỗ đứng lịch sử thì ông là bậc khai quốc công thần từ những ngày đầu và đã trải qua bao biến thiên của đất nước cho đến tận ngày hôm nay.

Hơn nữa, ở một đất nước vẫn còn tình cảm tự ti thể hiện rõ nét qua thái độ sùng ngoại thì một nhân vật được thế giới tôn trọng như ông Giáp đã giúp hồi sinh trong người dân lòng tự hào trước thế giới.

Bản thân tôi ở Đồng Hới còn nghe có người ca tụng ông đứng trên cả Napoleon của Pháp hoặc Pierre Đại đế của người Nga.

Thế nhưng, dù công trạng hay danh tiếng, theo tôi nghĩ, để lay động lòng người thì phải cần điều gì đó rất người chứ không phải duy ý chí.

Và tôi đã nghe hai người phụ nữ giấu tên là quản lý cho một công ty nước ngoài ở Sài Gòn chia sẻ ở trước cổng 30 Hoàng Diệu: “Nếu chỉ vì công lao thì chúng tôi đã không bay ra đây để viếng ông. Chúng tôi cảm phục ông vì ông là người vì dân, vì nước.”

Có một câu nói của ông Giáp mà báo chí trong nước hay dẫn lại khi nói về ông: “Tôi còn sống ngày nào là vì dân, vì nước ngày đó.”

Người dân đến viếng ông tại quê hương ở Lệ Thủy

Đến viếng tại quê nhà ông ở Lệ Thủy có doanh nghiệp, đoàn thể, trường học và cá nhân

Dẫu sao đây cũng chỉ là một câu nói, nhưng có những chi tiết trong đời ông khiến tôi tin rằng đây là lời nói thật lòng.

Ông đi hoạt động cách mạng xuất phát từ cảnh đất nước lầm than và ông đến với chủ nghĩa cộng sản như là phương tiện cứu dân cứu nước. Cho nên ít nhiều ông có tinh thần dân tộc hơn là đấu tranh giai cấp triệt để.

Ông từng trăn trở trong những năm cuối đời rằng ‘đất nước đã giải phóng được mấy chục năm rồi mà sao vẫn còn tụt hậu xa như thế?’

Tôi đã nghe một người họ hàng ông ở Lệ Thủy kể những khi về thăm quê ông thường kêu gọi ‘sáng tạo, đổi mới để phát triển hơn nữa’.

Nặng lòng với quê hương

Tôi cũng nghe câu chuyện của một người dân Đồng Hới cho tôi quá giang trở về từ Vũng Chùa rằng khi còn là học sinh có lần đã đón ông Giáp về thăm trường. Ông Giáp hỏi về Napoleon thì ai cũng biết nhưng hỏi ngọi núi cao nhất Quảng Bình thì không ai biết. Ông đã lấy điều đó ra để căn dặn các học sinh phải biết tường về quê hương đất nước.

Nếu ông muốn an nhàn lúc tuổi già thì chẳng dại gì ông lên tiếng về vấn đề bauxite vì biết sẽ làm lãnh đạo phật lòng. Nhưng ở vị trí của một nhà chiến lược quân sự, ông thấy rõ những hiểm họa đối với đất nước và thấy như thế thì ông không thể không lên tiếng.

Ông hơn hẳn nhiều lãnh đạo về hưu chỉ biết lo vun vén sao cho an nhàn tấm thân.

Tôi cũng nghe một người hàng xóm của ông ở Lệ Thủy kể rằng mỗi khi về thăm nhà ông thường gặp gỡ bà con rồi ‘cũng hò khoan Lệ Thủy’.

Một người yêu tiếng hát quê hương như thế chắc hẳn nặng lòng với quê hương đất nước.

Nhà ông Giáp ở Lệ Thủy

Ngôi nhà ở làng An Xá đã trở thành nhà tưởng niệm ông Giáp

Và cũng vì nặng lòng với quê hương mà ông đã chọn yên nghỉ ở nơi ‘lá rụng về cội’ chứ không phải ở một nơi danh giá mà nhiều người thường nói đùa rằng những ai vào được Bộ Chính trị ‘đã chắc một suất ở Mai Dịch’.

Ở nơi khuất nẻo thế chắc ông cũng không mong có nhiều người đến viếng. Sinh phần ông nhìn ra trời biển bao la, có nắng sớm, sương đêm, có gió lộng, trăng tà, có tiếng chuông chùa thanh tịnh. Ở nơi đó ông có thể ngàn năm nghe sóng vỗ, thiên thu ngắm trời xanh.

Rất may là Đảng đã tôn trọng di nguyện của ông – một di nguyện trong sáng không màng danh lợi.

Xuất thân là một thầy giáo dạy Sử, số phận đưa đẩy ông ra cầm quân đánh giặc. Ông từng nói một ngày nào đó hết chiến tranh ông sẽ trở về làm thầy dạy Sử như xưa.

Trong những năm bị hà hiếp, là một người có uy tín trong toàn quân ông hoàn toàn có thể huy động lực lượng làm một cuộc lật đổ để tiếm quyền.

Nhưng ông không có tham vọng quyền lực. Cốt lõi ông không phải là một chính khách. Ông không có cái gian hùng của Mao Trạch Đông hay Lê Duẩn để làm cho mọi người quy phục.

Ý Đảng và lòng dân

Theo lý mà suy thì một nhân vật cộng sản trong sáng như ông Giáp có thể giúp Đảng lấy lại niềm tin đã quá sa sút của người dân vào lý tưởng cộng sản và sự lãnh đạo của Đảng. Đảng càng phải ra sức tuyên truyền về tấm gương ông Giáp mới phải.

Tuy nhiên thực tế dường như diễn ra theo chiều ngược lại.

Ở đây tôi thấy khoảng cách khá rõ giữa ý Đảng và lòng dân trong cách đánh giá ông Giáp.

Khi ông Giáp vừa qua đời, trên mạng tràn ngập những lời ca tụng ông. Sự tôn sùng đến mức đẩy ông đến gần với vị lãnh tụ khai quốc là ông Hồ Chí Minh.

Ông được gọi là ‘Người’, một cách xưng hô đầy tôn kính vốn chỉ dành cho ông Hồ. Có nhiều người còn gọi ông là vị ‘cha già dân tộc thứ hai sau Bác Hồ’. Có người coi ‘ông và Bác Hồ là hai nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại’.

Nhưng Đảng không thích điều này.

Tôi có thể hiểu được chỗ khó xử của Đảng: nếu tôn vinh ông Giáp lên mức gần ngang hàng với ông Hồ thì những lãnh tụ khác của Đảng như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng sẽ đặt ở đâu?

Do đó, không khó để nhận ra nỗ lực của Đảng đưa mọi thứ về lại trật tự.

Thật ra việc đài truyền hình trung ương không truyền hình trực tiếp về lễ viếng ông Giáp cũng không có gì là lạ bởi lẽ trước đây lễ viếng của các ông Võ Văn Kiệt và Phạm Văn Đồng cũng có trực tiếp đâu.

Tuy nhiên tôi nghe nhiều ý kiến người dân phản đối. Rõ ràng họ muốn ông Giáp phải được đối xử đặc biệt hơn so với những vị kia.

Với lại trong nội bộ Đảng không phải ai cũng đánh giá cao ông Giáp, ít nhất là công khai.

Lễ viếng và lễ truy điệu có đủ mặt bá quan văn võ cả đương chức lẫn cựu trào nhưng không thấy Đại tướng Lê Đức Anh, cựu chủ tịch nước.

Nếu nói tuổi già sức yếu thì ngay cả ông Đỗ Mười chân yếu, tay run hay ông Vũ Khiêu ngồi xe lăn vẫn đến viếng.

Nếu biết rằng ông Anh quá yếu không đến viếng được thì tại sao trên bảng điện tử thông báo tôi thấy ghi rõ ràng sau lượt viếng của các cựu tổng bí thư là đến lượt ông Lê Đức Anh?

‘Công của tập thể’

Các lãnh đạo chờ viếng

Toàn bộ lãnh đạo đương nhiệm và về hưu đều đến viếng ngoại trừ ông Lê Đức Anh

Nỗ lực đưa vị trí ông Giáp trở về đúng trật tự có thể thấy rõ trong điếu văn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Một mặt điếu văn ca ngợi ông Giáp có ‘những cống hiến đặc biệt xuất sắc’ và ‘mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc’ nhưng một mặt nhấn mạnh rằng ông Giáp chỉ là một người trong một tập thể chứ không phải vĩ nhân vượt trên tất cả.

Chỗ nào có nhắc đến công trạng của ông Giáp thì cũng không quên nhắc nhở rằng chiến công đó nằm trong sự lãnh đạo của ‘Trung ương Đảng và Bác Hồ’.

Ông Giáp được cho chỉ là ‘một trong những người tiêu biểu’ trong ‘một tập thể cán bộ lãnh đạo tài năng, dày dạn’.

Xét trong lịch sử lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì những lời lẽ nói trên cũng là công bằng.

Tuy nhiên, sẽ không công bằng khi điếu văn về ông Giáp mà lại không làm nổi bật vai trò chỉ huy chiến lược của cá nhân ông trong chiến thắng Điện Biên Phủ.

Mặc dù chiến thắng đó đúng là công sức của ‘toàn Đảng, toàn dân, toàn quân’, nhưng với vai trò là tổng tư lệnh tối cao, ông Giáp linh hồn của chiến thắng chứ không thể chỉ dừng ở mức ‘góp phần’ như Điếu văn đã nêu.

Đối với ai muốn đặt ông Giáp lên gần ngang hàng với ông Hồ thì điếu văn nói rất rõ là ông Giáp ‘được sự giáo dục, rèn luyện’ của ông Hồ.

Ngay cả danh tiếng quốc tế của Tướng Giáp thì điếu văn chỉ nhắc đến việc ông tạo cảm hứng cho các nước thuộc địa Á, Phi, Mỹ Latin chứ không hề nói đến tiếng tăm của ông ở các nước phương Tây.

Bản thân tôi không tin rằng tiếc thương của người dân về một tấm gương cộng sản như ông Giáp sẽ càng khiến người dân tin vào Đảng. Ngược lại, nó chỉ càng thể hiện sự bất mãn của người dân.

Hai người phụ nữ chia sẻ với tôi ở 30 Hoàng Diệu còn nhấn mạnh rằng ‘các lãnh đạo Việt Nam hiện nay không ai được như ông Giáp’.

Rõ ràng khi người dân bất mãn với các cán bộ hư hỏng bao nhiêu thì họ càng thương tiếc sự ra đi của một người chính trực bấy nhiêu.

Người xưa năm cũ

Các lãnh đạo chờ viếng ông Giáp

Các lãnh đạo Đảng một thời được cho là không nghe theo lời góp ý của ông Giáp

Đảng cũng thấy được điều đó. Điếu văn của Tổng Bí thư đã liên hệ tấm gương ông Giáp với vấn đề thời sự hiện nay là chỉnh đốn Đảng.

Tuy nhiên, thế hệ của ông Giáp là những người sống trong hang đá, ăn cơm rừng, uống nước suối, còn quan chức bây giờ mấy ai không nhà cao cửa rộng, cuộc sống phủ phê.

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân do ông Giáp chỉ đạo ngày xưa là từ nhân dân mà ra và chiến đấu vì lợi ích của nhân dân.

Còn quân đội bây giờ phải bảo vệ Đảng trước tiên rồi mới đến bảo vệ người dân.

Thật ra với hơn 20 năm lui về an dưỡng ông Giáp hầu như không còn liên hệ gì với cuộc sống của người dân hiện nay ngoài ý nghĩa như một biểu tượng lịch sử.

Sự tiếc thương ông rồi cũng mau chóng trôi qua và ông cũng sẽ chỉ còn trên sách sử.

Đồng nghiệp của tôi bên BBC World News, anh Jonathan Head, nhận xét rằng ngay sau đoàn linh cữu ông Giáp vừa đi qua chừng 5 phút thì người dân Hà Nội lại trở về với cuộc sống như không có việc gì xảy ra. Có những cô gái còn xúng xính áo váy đi mua sắm.

Còn tôi khi ở Quảng Bình về Hà Nội một ngày sau đó thì không thấy bất kỳ dấu vết gì của một Quốc tang mới hôm trước. Cờ rủ ở sân bay Nội Bài đã được thay bằng quốc kỳ hai nước Việt Nam-Trung Quốc song song.

Người chết dù sao cũng đã chết còn cuộc sống đương nhiên vẫn phải đi tới.

Nhưng ngay cả trong lúc quốc tang, tôi đã thấy các cơ quan Đảng trên đường Hoàng Văn Thụ có nơi treo cờ rủ có nơi không ngay sau khi Quảng trường Ba Đình đã rủ cờ.

Chân dung ông Giáp được bày bán

Một số người ở Hà Nội nói rằng họ mua chân dung ông Giáp về ‘để thờ’

Có lẽ họ bận việc quá nên chưa kịp rủ cờ chăng? Nhưng một việc quan trọng như thế thì làm sao cơ quan Đảng có thể lơ là được? Điều này ít nhiều chứng tỏ ông Giáp không còn ảnh hưởng gì đối với chính quyền hiện tại.

Ở phạm vi quốc tế cũng vậy, đối với nhân vật tiếng tăm như ông Giáp, tôi chờ đợi các đoàn khách quốc tế đến viếng nhưng ngoài các nước châu Phi hâm mộ ông Giáp như Mozambique và Algerie chỉ gửi phái đoàn cấp thấp và phái đoàn cấp cao của các nước Lào, Campuchia, không còn phái đoàn quốc tế nào đáng lưu ý.

Điều đó chứng tỏ ông Giáp là một nhân vật xưa cũ đã mấy chục năm không còn liên hệ gì với cuộc sống hiện nay trên thế giới.

Cầm quân và cầm quần

Dẫu sao ông Giáp cũng là con người bình thường và cũng có những sai lầm.

Trên các diễn đàn mạng tôi có đọc được một ý kiến thế này: “Một lãnh tụ vĩ đại (chỉ ông Hồ) và một nhà yêu nước vĩ đại (chỉ ông Giáp) mà để lại một đất nước tham nhũng vĩ đại.”

Nghe chua chát nhưng không phải không có phần chính xác.

Nếu như ông Giáp ra đi khi mà đất nước mà ông góp công sáng lập và bảo vệ được hùng cường và thịnh vượng thì chắc chắn vị thế của ông trong lịch sử dân tộc và trong mắt bạn bè quốc tế cũng được nâng lên đáng kể.

Ít nhất tôi tin rằng hiện tình đất nước ngày nay không phải là điều ông mong muốn. Bản thân ông vẫn tin rằng con đường mà ông đã đi là tốt cho dân cho nước.

Cho nên sẽ là khiên cưỡng khi tìm cách liên hệ ông Giáp, một người đã đi theo Đảng từ lúc trai trẻ cho đến cuối đời, đã mất vợ, đã ly tán gia đình cho lý tưởng, với phong trào dân chủ hiện nay.

Bàn thờ ông Giáp bên vệ đường

Lác đác bên đường từ Đồng Hới ra Vũng Chùa, người dân bày bàn thờ ông Giáp

Chắc hẳn ông cũng có suy nghĩ như nhiều người là ‘đường lối của Đảng không bao giờ sai, chỉ có thực hiện sai’.

Cũng có ý kiến cho rằng ông Giáp là một người ‘tàn nhẫn’ khi từng nói sẵn sàng hy sinh hàng ngàn sinh mạng để đạt thắng lợi.

Như thế thì không thể nói ông kế thừa tinh hoa đánh giặc của cha ông, vốn là ‘tướng sỹ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào’.

Nhưng tại sao tướng sỹ lại tôn kính ông như vậy? Với lại ông vẫn thường nhắc đến sự hy sinh của các chiến sỹ Điện Biên, chứng tỏ ông ý thức rằng danh vọng của ông là ‘dãi thân trăm họ làm công một người’.

Còn về việc ông ít ra ra mặt trận, nếu xét ông vốn là trí thức đọc sách, mang họ Võ nhưng lấy tên Văn, thì sẽ thông cảm với ông hơn.

Và cũng sẽ thông cảm với ông hơn nếu đặt bản thân vào hoàn cảnh của ông trong câu chuyện được phân công phụ trách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình.

Một vị tướng có chiến công mà phải làm việc đấy, phải chịu miệng đời thị phi ‘cầm quân, cầm quần’, chưa kể mất mặt với cấp dưới thì buồn lắm.

Tức giận thì ai gặp cảnh đó cũng tức giận, nhưng dằn được cơn tức thì không phải ai cũng làm được!

Ông có thể cầm quân khuấy động phong ba. Nhưng rồi toàn bộ cơ đồ ông góp công tạo dựng sẽ tiêu tan.

Ở đây tôi không thấy ông Giáp có gì phải nhục nhã mà chỉ thấy sự hẹp hòi, đố kỵ không xứng đáng ở những vị lãnh đạo muốn hạ nhục ông.

Dẫu sao nghĩa tử là nghĩa tận. Sử sách và hậu thế sẽ đánh giá ông chính xác không sai trật.

Cầu cho xương thịt của ông hòa vào đất cát.

Cầu cho hồn phách của ông hòa vào anh linh của lớp lớp đồng bào tử sỹ trận vong để giữ gìn dải non sông gấm vóc này.

Nam Hà – Ông Đại Tướng với những hệ lụy từ chữ “Nhẫn”

Từ lâu, chúng tôi đã biết ông cất đi chữ “Dũng”, cái tính cách không thể thiếu ở một vị tướng khi đứng trước địch quân. Thế cũng phải, vì bây giờ là đối với đồng chí, nhưng ông cũng đã nhầm khi cho rằng trong quan hệ đồng chí không có tính đối kháng (?).
Lịch sử phong trào cộng sản, qua thực tiễn ở các nước anh em như Liên Xô và Trung Quốc, một khi đã vận dụng chuyên chính vô sản thì các mặt đối lập đều có thể mang tính đối kháng, chỉ có nhiều hay ít, nông hay sâu mà thôi.
Khi Lê nin xây dựng chính quyền công nông ở Nga, ông đã đưa đi đày không ít những người đã từng cùng hội cùng thuyền. Sau này ông Stalin cũng đã đưa đi đày khổ sai ở Sibêri biết bao người không đồng chính kiến. Ông cũng đã tiêu diệt cả một trung đoàn Ba Lan vì ông không tin vào sự trung thành của họ. Ngay cả đối với đồng cấp ở Trung Ương, Stalin cũng thẳng tay đàn áp…
Những ông Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, người bị tù đày đến chết hoặc bị giết cả nhà bằng đạn chống tăng, do bàn tay đồng chí Mao Trạch Đông, đâu có phải là chuyện lạ chuyện hiếm?
Ông tướng Giáp nhận thấy sự nguy hiểm khi bị các đồng chí đẩy về “phía bên kia”, nhưng ông không chọn con đường chống lại mà chọn chữ nhẫn. Cũng vì thế mà ông đã có thể thọ đến trên trăm tuổi. Trước những chèn ép, bôi nhọ, chơi xấu ngấm ngầm hay cả công khai, ông cũng đều áp dụng khẩu hiệu “ba không” (không nghe, không thấy, không biết), mặc dù cả ông và gia đình ông đều không lạ những thủ đoạn này.
…“Những thủ đoạn quen thuộc áp dụng để ngăn chặn ông ấy vào Trung Ương, chúng tôi đều biết quá rõ. Sắp đến Hội Nghị là thế nào cũng có một vài nghi vấn nêu ra đối với ông, sự việc điều tra đến hết hội nghị, thế là qua một nhiệm kỳ. Lần trước đánh ông ấy là một tay “bực thày” (Lê Đức Thọ), lần này thì chỉ là một tay học trò (Nguyễn Đức Tâm)…”
Cả đến câu vè về sự nghiệp của ông kết thúc ở “Cây Đa Nhà Bò” (Địa chỉ nhà Hộ Sinh phố Lò Đúc) ông cũng thuộc.
Ông Ba Duẩn một thời đi đến đâu cũng riễu “Võ Nguyên Giáp sợ Mỹ”, vừa nói vừa làm động tác run rẩy gây cười.
Ông Sáu Búa (tức Thọ, tức Khải) ngạo mạn phán rằng: “Còn để cho cái đầu Giáp ở nguyên trên cổ là may lắm rồi!”
Thật ghê sợ cho cái quan hệ giữa những người cộng sản.
Xử thế, trong trường hợp này, chữ Nhẫn chỉ cứu được mình ông, còn số phận biết bao người, từ những cộng sự thân tín, đến những người công khai ủng hộ ông đều chung một số phận kết cục đầy nghi vấn. Những Đặng Kim Giang, Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lê Liêm, Đỗ Đức Kiên Võ Văn Kiệt v.v… và những cộng sự ở những cấp thấp hơn đều chung một sự đầy ải, với những kết cục xấu số.
Ông Đại Tướng bị đồng đội vô hiệu hóa khi năng lực phục vụ đất nước của ông còn có thừa, đó là một sự đáng tiếc, một sự mỉa mai.
Cái ngày lịch sử, ông đứng ra thành lập Đội Việt Nam Truyên Truyền Giải Phóng Quân, 22 tháng 12 năm 1944, sau này lấy làm ngày Thành Lập Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, cũng bị chèn vào thành ngày Quốc Phòng Toàn Dân, có nghĩa rằng người ta đã từng bước bôi xóa bớt những gì liên quan đến ông. Năm 1994, kỷ niệm 40 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ, dự Mít tinh tại Điện Biên Phủ là hai ông Nguyễn Khánh (Phó Thủ Tướng) và Đoàn Khuê (Đại Tướng). Ông chỉ được vi hành thăm Mường Phăng, mà cũng phải đợi hơn nửa ngày mới có tàu bay. Không ai nhắc đến ông Đại Tướng, duy chỉ có ông Võ Văn Kiệt dám đứng lên biểu dương tướng Giáp ở cuộc Mít tinh tại Hà Nội.
Năm đó vì tự hào và cũng vì tự ái là Chiến sĩ Điện Biên Phủ, chúng tôi bỏ tiền túi ra rủ nhau làm bộ phim tài liệu 5 tập “Chín năm làm một Điện Biên”. Khi thông qua, được ông khen là nhiều tư liệu quý và đẹp nhưng ông cũng dặn dò: “Nhân chi sơ, tính bản thiện, con người vốn tốt, nhưng vì chưa hiểu hoặc không hiểu mình, nên có thể không ủng hộ mình thậm chí chống lại, vì vậy việc xã hội hóa phim náy, nên thận trọng”
Ông còn dặn thêm: “Lúc này họ còn mạnh lắm, thận trọng vì không chỉ kỷ luật đâu mà còn có thể tù tội nữa đấy!”.
Không phải đợi đến sau này khi những kiến nghị của ông về Tổng Cục II về bauxite, về nhà Quốc Hội về sát nhập Hà Đông của ông không được những nhà lãnh đạo đương thời quan tâm, thậm chí họ còn bỏ ngoài tai… mà ngay trong tang lễ ông Phạm Văn Đồng ông đã bị những quan chức vào tuổi con cháu chen bật mãi ra đằng sau. Có ai nghĩ rằng ông là người đồng chí thân cận cuối cùng của bộ ba Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Không ai nhường ông đi gần ông Đồng trong giây phút thiêng liêng tử biệt. Đối với người Việt Nam đó là một hành động vô đạo lý mà họ đã vô tư đối xử với ông.
Tuy chậm, nhưng lúc này đây, ông Đại Tướng của chúng ta đã theo lối ngựa ông Thánh Gióng, ông bỏ lại tất cả từ sự thương yêu đến lòng ghét bỏ, cũng không đợi thêm bất kỳ sự vinh danh nào. Ông đã là, chỉ là và mãi mãi là Đại Tướng, nhưng là một ông Đại Tướng không gì so sánh được. Riêng tôi còn mừng là ông đã rũ bỏ được Chủ Nghĩa Cộng Sản với lòng đinh ninh một nghịch lý “Kinh tế Thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Vĩnh biệt người “Cộng Sản Lý Thuyết” cuối cùng của “Phái Việt Bắc”.
Trước dòng người tràn ra vô tận đối với thời gian và không gian tiễn biệt ông, chúng ta hẳn thấy rằng với bất kỳ khó khăn nào của đất nước, chúng ta cũng sẽ dễ dàng vượt qua, nếu chúng ta đạt được tỷ lệ đồng lòng của dân chúng như hôm nay. Một hình ảnh làm cho những kẻ từng ăn nói và đối xử xàm xỡ với ông hẳn lấy làm hổ thẹn. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều nhưng không vội nói gì vì không muốn làm vẩn đục không khí thiêng liêng của mọi người thương tiếc ông. Chỉ có một chút phân vân:
Giá như Anh Văn bớt Nhẫn đi một chút thì tình hình bây giờ đã có thể khác.
Điều cuối cùng tôi muốn nói là trong điếu văn của ông Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam đọc trước linh cữu Tướng Giáp, ông cũng đã bắt chước mọi người gọi ông Võ Nguyên Giáp là “Anh Văn”, xong hình như danh xưng đó không phải dành cho những người đã từng chối bỏ lời Anh Văn lúc sinh thời thiết tha kiến nghị với Đảng với Nhà Nước. Phải không anh Nguyễn Phú Trọng?

Línhgià Nam Hà
Tác giả gửi cho X-Cafevn từ HN
(X-cafevn)

Ngô Nhân Dụng – Tấm gương Võ Nguyên Giáp

Một nhà báo ngoại quốc, ông Jonathan Head, đến Việt Nam quan sát và tường thuật đám tang ông Võ Nguyên Giáp cho đài BBC, nhận xét rằng trong số những người đến bày tỏ lòng thương tiếc và ngưỡng mộ ông, ngoài các cựu chiến binh lớn tuổi còn có hàng ngàn thanh niên, nhiều người chưa ra đời khi ông Giáp bị gạt ra khỏi Bộ Chính Trị đảng cộng sản năm 1982.
Jonathan Head viết: “… những hàng dài thanh niên với nét mặt buồn bã chẳng kém vẻ mặt của các cựu chiến binh.” Nhưng Head cũng nhận xét, “Những khẩu hiệu Marxist cũ rích vẫn được đảng Cộng sản Việt Nam rao giảng nhưng không còn gì hấp dẫn với thế hệ trẻ, vốn đã biết sống theo khuynh hướng xã hội tiêu dùng; và biết những cơ hội mà kinh tế thị trường mang lại cho họ.” Trong khi đó, thì “Tướng Giáp đã luôn trung thành với các khẩu hiệu cũ rích đó… Ông không bao giờ đi chệch đường lối chính sách hay nói về bất cứ nghi ngờ hay mối lo khủng hoảng nào của chế độ… Thay vào đó, ông vẫn hùng hồn nói về quy luật tất yếu lịch sử là chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng kinh tế tư bản.”
Võ Nguyên Giáp luôn luôn đóng vai trò một đảng viên cộng sản gương mẫu, tức là lúc nào cũng tin tưởng ở lý thuyết cộng sản và chấp nhận tất cả các quyết định của đảng, như trong mục này đã viết. Nhưng giải thích như vậy cũng không đầy đủ cho câu hỏi, như Huỳnh Thục Vy mới viết, tại sao ông Giáp “lặng thinh một cách vô cảm” trong nhiều trường hợp đáng lẽ phải lên tiếng.
Ông Giáp tuân theo lệnh đảng trước mọi quyết định đối với cá nhân. Vì vậy, ông cắn răng cam chịu khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ tước hết quyền hành. Ông Giáp vẫn giữ chức tổng tư lệnh, bí thư Quân Ủy Trung Ương; còn làm phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng, ủy viên Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam cho đến năm 1975 nhưng nhiều người chỉ có Lê Duẩn chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam. Ông mất chức bí thư Quân Ủy năm 1977, mất chức bộ trưởng Quốc Phòng năm 1980, rồi năm 1982 bị loại khỏi Bộ Chính Trị.
Sau đó, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn công khai làm nhục ông khi phong Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Ủy Ban Dân Số và Sinh Ðẻ Có Kế Hoạch, tức chương trình hạn chế sinh sản, còn gọi là cai đẻ. Với chức vụ tổng chỉ huy chiến dịch cai đẻ của ông, dân miền Bắc đã đặt câu ca dao chế nhạo: “Ngày xưa đại tướng cầm quân – Ngày nay đại tướng cầm quần chị em – Ngày xưa đại tướng công đồn, vân vân.”
Không ai nghe ông Giáp than phiền lời nào khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ hạ nhục trước mặt cả nước như thế. Nhưng trong chín năm làm phó thủ tướng phụ trách khoa học, kỹ thuật, từ 1982 đến 1991, cũng không ai thấy nước Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể nào về khoa học, kỹ thuật. Ngay cả việc sinh đẻ có kế hoạch cũng không ra gì; bằng cớ là dân số Việt Nam đã tăng vọt từ đó tới nay.
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ là những người đồng thời với Võ Nguyên Giáp, dù địa vị thấp hơn nhiều. Ông chịu thua họ, cũng là điều chấp nhận được. Nhưng sau đó, cả đám thuộc hạ hàng thứ ba, hạng tư, như Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười lại hạ nhục ông Giáp thêm một lần nữa. Họ phổ biến các tài liệu tố cáo ông từng là con nuôi của chánh sở mật thám Ðông Dương, Louis Marty; từng bán bí mật quân sự cho Ðại sứ Liên Xô Serbakov; còn trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ thì Giáp hèn nhát, sợ chết, quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài (Gần đây, ông Bùi Tín xác nhận rằng hầm trú ẩn của ông Giáp khá an toàn, nằm ngoài tầm trọng pháo của quân Pháp). Ðó là chưa kể cái tội ăn nằm với một cô giáo tới nhà dạy piano. Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đã đuổi Võ Nguyên Giáp ra khỏi Trung Ương Ðảng, một hành động trước đó Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn tha, chưa nỡ tước bỏ. Bọn Lê Duẩn lột bỏ mũ mãng của Giáp nhưng còn cho mặc cái quần; bọn Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh lột hết. Trong mấy chục năm, Bộ Chính Trị đặt ra những chức cố vấn. Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công, vân vân, rồi sau này tới Võ Văn Kiệt, Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đều được mời vào chức cố vấn; nhưng không ai ngó tới Võ Nguyên Giáp.
Võ Nguyên Giáp không bao giờ phản đối, cũng không hề cất tiếng than phiền về thân phận của mình. Lúc bị hạ bệ, đẩy xuống phụ trách việc cai đẻ, ông Giáp có thể từ chức, về hưu, vì đã ở tuổi 70 rồi, để tỏ thái độ, và giữ gìn danh tiết của một con người, nhất là của một ông tướng. Nhưng ông không dám cãi. Thái độ chịu đựng đó cũng thấy trong vụ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ phát động “Vụ Án Xét Lại Chống Ðảng.” Họ nhắm vào ông Giáp nhưng không đánh trực tiếp, mà tấn công vào những người đồng chí trung thành của ông: Thượng tướng Chu Văn Tấn, tư lệnh Quân Khu Việt Bắc; Thiếu tướng Ðặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ; Tướng Lê Liêm; Trung tướng Trần Ðộ; người tiếp nhận việc đầu hàng của tướng de Castries; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên cục trưởng tác chiến; Ðại tá Phạm Quế Dương; ông Hoàng Minh Chính; Ðại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Tổng Tham Mưu, trưởng đoàn quân sự Việt Nam trong hội nghị Trung Giá; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên; Ðại tá Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục Quân Báo; Ðại tá Nguyễn Văn Hiếu chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng; và Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, vân vân. Tất cả bị vu cáo tội “chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài.” Võ Nguyên Giáp biết những lời cáo buộc đó đều là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, không bênh vực, không bảo vệ, hay giúp đỡ những đồng đội trung thành đang bị bè lũ cầm quyền đàn áp.
Thái độ “chui trong hầm trú ẩn” của ông không biểu lộ trong đời tư mà thôi; trong cả việc công cũng vậy. Ông Giáp không nói một lời nào khi các chính sách kinh tế của đảng làm dân tộc kiệt quệ, nhiều nông dân chết đói, trong lúc ông đang làm phó thủ tướng. Gần đây, ông không hề lên tiếng khi đảng cộng sản đàn áp dân Việt Nam biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm Biển Ðông và đánh giết ngư dân Việt Nam. Ông không bàn một lời nào đến nạn tham nhũng lan tràn, hoàn toàn im lặng khi các nông dân mất ruộng, mất nhà đi biểu tình phản đối khắp nước. Việc ông lên tiếng về vụ bô xít giúp người ta nhớ đến ông; nhưng sau đó ông lại tiếp tục chui xuống hầm; bị coi là chỉ “đánh trống bỏ dùi.” Trước sau, ông Võ Nguyên Giáp vẫn chui dưới hầm, ngoài tầm pháo kích của các đồng chí đang nắm quyền sinh sát.
Giải thích thái độ im lặng của ông Giáp bằng tinh thần kỷ luật của một đảng viên trung kiên thì không đủ. Nhiều đảng viên và tướng lãnh đã từng lên tiếng phản đối chính quyền cộng sản tham nhũng, lệ thuộc Trung Cộng, và bất lực về kinh tế.
Các tướng Trần Ðộ, Nguyễn Văn Vịnh, Ðại tá Phạm Quế Dương, họ đâu có cam ngậm miệng khi thấy lòng dân phẫn uất?
Cho nên, ông Võ Nguyên Giáp lựa chọn chui xuống hầm chỉ vì lo cho chính ông, và con cháu ông.
Ông Giáp biết các đồng chí trong đảng Cộng sản không từ bỏ một thủ đoạn nào khi họ cần bảo vệ quyền hành. Họ cướp được chính quyền là nhờ dám giết người nhiều hơn, tàn bạo hơn những đối thủ chính trị của họ. Chính ông đã chỉ huy các vụ tàn sát các đảng phái quốc gia yêu nước trong năm 1946; ngụy tạo vụ Ôn Như Hầu để bắt, giết các chiến sĩ Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Dân Chính, những người thoát chết phải sang Trung Quốc lưu vong. Ông đã biết rằng trong đảng bất cứ ai cũng có thể bị thủ tiêu. Ông biết những cái chết bất đắc kỳ tử mờ ám của bộ trưởng Dương Bạch Mai hay Ðại Tướng Hoàng Văn Thái. Sống trong chế độ cộng sản, không ai được an toàn. Ngay sau khi Lê Duẩn chết, các con ông ta còn hỏi Phó Thủ tướng Trần Duy Thành: Liệu “họ” có giết chúng cháu không; theo lời ông Thành kể trong hồi ký.
Mối lo lắng của ông Võ Nguyên Giáp được biểu lộ ngay cả khi chữa bệnh. Bác sĩ Phạm Văn Ngà, người săn sóc sức khỏe cho ông trong 30 năm, kể rằng: “Ðại tướng có một nguyên tắc bất di bất dịch là không bao giờ uống thuốc của ai đưa cho, kể cả con cái, trừ Bác sĩ Ngà.”
Nhờ biết thân, biết phận, giữ mình như vậy, ông vẫn được chế độ hậu đãi. Ông được cung cấp đủ dinh thự, xe cộ, phụ tá, nhân viên văn phòng, bác sĩ, y tá thường trực, vệ sĩ, người giúp việc, và mọi thứ bổng lộc, phụ cấp. Vì ông biết giữ mồm giữ miệng. Lâu lâu ông lại được các thuộc cấp cũ còn tại chức mời dự tiệc, liên hoan, để thấy mình vẫn còn được trọng vọng. Nhưng luôn luôn giữ mồm, giữ miệng; không nói một lời nào “chệch hướng.” Trong đời tư, ông được người ta kính trọng vì lối sống đơn giản, không chạy chọt cho con em làm giầu quá đáng, như các quan chức lớn khác. Ðó cũng là điều Jonathan Head coi là lý do tại sao nhiều cựu chiến binh và giới trẻ còn ngưỡng mộ, đi viếng tang Tướng Giáp.
Nhà báo Jonathan Head viết: “Ông là người giản dị, lịch thiệp và sống đơn giản, họ nói với tôi.” Lời giải thích này khiến Jonathan Head thấy những người dân đi viếng tang ông Giáp là để phản kháng đám lãnh tụ cộng sản đang cầm quyền, một cách gián tiếp. “Những phẩm chất họ ngưỡng mộ nơi ông cũng chính là điều khiến họ bất bình cực độ với giới lãnh đạo hiện nay. Những người đó đã để nạn tham nhũng và trục lợi cá nhân hoành hành; những người đó không đủ cứng rắn khi đối phó với Trung Quốc,” vân vân. Jonathan Head kết luận, “Sau khi chết, ông Giáp lại được người dân nhìn nhận như một biểu tượng của tất cả những gì mà các lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay không có.” Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang chắc cũng hiểu được thông điệp này. Phản kháng một cách gián tiếp chắc không đủ để bọn họ chuyển lòng, chú ý đến lợi ích của dân Việt Nam hơn. Nhưng trong đám tang ông Giáp, người dân làm được tới đó là quý lắm rồi. Bởi vì con người ông Giáp không thể nào khích lệ cho ai đứng lên phản kháng một cách mạnh mẽ hơn được. Chính ông là tấm gương nhịn nhục, chịu đựng suốt đời, để được sống an thân, khi chết thì được nghe điếu văn, truy điệu. Chắc chắn đó không phải là một tấm gương cho những thanh niên thời nay, như Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Uyên Phương!
Ngô Nhân Dụng
(Người Việt)

“Dân chủ” kinh dị

Trong một vụ án hình sự gần đây, khi kẻ phạm tội lạm dụng tình dục bị bắt quả tang, các cán bộ điều tra đã rất vất vả vận động các cô gái bị lạm dụng khai về những hành vi xấu xa của kẻ thủ ác. Lý do các cô không khai vì các cô xấu hổ, các cô không muốn để danh tiếng của mình bị vấy bẩn. Đó là một phần văn hóa Việt, coi trọng trinh tiết phụ nữ. Ấy vậy mà gần đây có mấy sự ồn ã của mấy người nhân danh đấu tranh cho dân chủ làm cho người ta kinh sợ. Kinh sợ vì không biết họ nhận được những khoản vật chất nào mà họ tự bịa đặt, tự bôi nhọ danh tiết của mình để cố vu khống cho các chiến sĩ an ninh, cho Nhà nước.
Đầu tiên là sự việc của một cô gái 20 tuổi. Cô ta đã bị tuyên án tù cho hưởng án treo nhưng tự động đi khỏi nơi cư trú, không báo cho các cơ quan chức năng địa phương. Dĩ nhiên các cơ quan bảo vệ pháp luật phải cưỡng chế đưa cô về địa phương thụ án. Khi đưa cô ra sân bay, cô không chịu vào phòng cách ly để ra máy bay. Các chiến sĩ an ninh sân bay phải kéo cô vào cho kịp chuyến bay. Lúc đó có mặt hàng trăm hành khách đi cùng chuyến bay, lại có cả ông bố hờ nhảy cả vào phòng cách ly can thiệp. Ấy vậy mà về đến nhà, cô và ông bố hờ đầy nghi vấn lên mạng vu khống các chiến sĩ tại thời điểm đưa cô lên máy bay đã “bóp”… cô. Lạy trời, trước mặt hàng trăm người, với cô gái này? Quả là đáng kinh sợ. Lẽ ra với một cô gái 20 tuổi, chưa chồng và như cô tự bạch là chưa có người yêu, trinh tiết và danh tiếng về sự trong trắng đàn bà của cô phải được giữ gìn, vậy mà tự mình bịa đặt và lu loa mình bị xâm hại tình dục thì ghê gớm thật. Còn ông bố hờ thì cũng ra sức khẳng định cô “con nuôi” của mình đã bị xâm hại. Trên mọi diễn đàn ông ta luôn chứng minh cô gái đã bị… và mở cuộc truy tìm người đã… “bóp” cô gái. Dĩ nhiên không phải đi tìm người bị xâm hại để bắt phải lấy cô ta mà chỉ để vu khống bôi nhọ.

Nhưng chuyện ấy cũng chưa phải là tột cùng. Gần đây có một cặp vợ chồng thông báo là chị vợ bị một nhóm “xã hội đen”, ám chỉ các chiến sĩ an ninh đã bắt cóc cô vợ, đánh đập, cướp tiền và quan trọng hơn cả là đã âm mưu tiêm thuốc độc và… hiếp dâm chị ta để bắt chị ta phải thay đổi quan điểm chính trị của mình, không chống đối Nhà nước nữa. Kinh sợ hơn, anh chồng tuyên bố thương vợ hơn vì vợ đã bị… hiếp dâm nhiều lần. Chứng cứ mà vợ chồng anh ta đưa ra là một lô tin nhắn đe dọa hiếp dâm. Ở trường hợp này thì không thể kêu trời được nữa. Có lực lượng nào lại dùng tin nhắn để vợ chồng nhà này lưu lại để rêu rao khắp nơi, tin nhắn lại nêu cả tên, cả hành vi… Vớ vẩn quá rồi. Nhưng cái chúng tôi nói đến là sự bất chấp các giá trị văn hóa, tình cảm của cặp vợ chồng nhà này. Không thể hiểu được thái độ của người chồng bịa ra vợ bị hiếp dâm nhiều lần rồi lu loa trên mạng, trên các diễn đàn và khi được một đài nước ngoài đưa tin, anh ta hý hửng ra mặt: Vợ anh bị hiếp dâm cả thế giới đã biết. Không biết hai vợ chồng có còn dám nhìn vào mắt nhau nữa không.

Sẽ có người nói chứng cớ nào cho sự bịa đặt. Thì đây, lu loa bị hiếp dâm nhưng khi công an địa phương mời đến khai báo để có tư liệu điều tra, hai vợ chồng còn ra điều kiện với cơ quan công an giúp hai vợ chồng tìm ra thủ phạm: Để được nghe cô vợ kể chuyện bị hiếp phải làm giấy mời cẩn thận, đưa đến tận nhà, hẹn giờ và đón tiếp cẩn thận. Không hợp tác với nhà chức trách tìm ra thủ phạm, mà cứ “bêu” ầm ầm trên mạng là hà cớ làm sao? Trí tưởng tượng được thôi thúc bởi sự thèm khát nổi tiếng thật kinh dị. Mà có chuyện gì đâu, có chứng cứ gì đâu ngoài mấy cái tin nhắn từ một số điện thoại giời ơi. Những số điện thoại sim rác các anh chị “dân chủ” có hàng trăm.

Ngô Trần
(ANTĐ)

Liệu sân bay Long Thành có thành Vina-airline ngập tham nhũng trong tương lai?

Dự án Sân bay Long Thành
 Vào ngày 17.10, báo Người Lao Động đưa tin, Bộ Giao thông Vận tải nhất quyết xây sân bay Long Thành. Theo dự án, sân bay Long Thành rộng 5.000 ha nằm tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, có chức năng trung chuyển trong khu vực Đông Nam Á. Với công suất 100 triệu lượt khách và 5 triệu tấn hàng hóa/năm, Long Thành có khả năng cạnh tranh với các sân bay lớn trên thế giới. Với khoảng mức đầu tư 7,8 tỉ USD.

Phuong Truong chán nản: “toàn đi vay nợ để quan hưởng rồi đè cổ bắt dân gánh là sao???”. Gà Tịt kêu lên: “tham nhũng nữa rồi”. Lê Khánh buồn phiền: “Đây là một trong những lý do làm nghèo đất nước….hic..hic..”.
Khi nhắc đến Vụ án kinh tế Tập đoàn Vinashin là một tập đoàn kinh doanh của nhà cầm quyền cs VN đã thất thoát hàng chục nghìn tỷ VND. Vẫn chưa thể thống kê đủ và hết những hậu quả nặng nề về kinh tế- xã hội do những con tàu Vinashin để lại. Tuy nhiên, các thống kê ban đầu cho thấy với hơn 4 tỷ USD thất thoát của Vinashin đã gấp 4 lần gói kích cầu của Chính phủ trong nỗ lực phục hồi kinh tế trong cơn khủng hoảng suy thoái năm 2008, gấp 3 lần tổng mức đầu tư cho chương trình xóa đói giảm nghèo cả nước – Theo Wikipedia.
Tổng số tài sản của công ty khoảng 90.000 tỷ đồng nhưng vay nợ tới hơn 80.000 tỷ. Với món nợ khổng lồ Vinashin này người dân VN từ em bé đến người già phải ì đầu ì cổ ra trả nợ bởi sự tham nhũng của nhóm lợi ích.
Trí tâm thất vọng nói: “Càng ngày càng có nhiều dự án thuộc nhà nước thấy không hiệu quả trước mắt nhưng vẫn cố tình làm ngơ, vẫn thực hiện cho bằng được bất chấp phản biện của nhân dân. Đó là do lợi ích nhóm, phần nhiều khi làm dự án người ta thường vẽ ra những viễn cảnh rất đẹp. Rồi sau đó ê chề với bao nỗi thất vọng vô cùng khi đó thì chuyện đã rồi và sai đâu sửa đó.” Trần Sơn lo lắng: “Hết cảng biển của Vinashin, Vinalines giờ lại đến sân bay của Vina airline chăng? Người dân sợ quá rồi, xin hãy lắng nghe các ý kiến phản biện. Mức đầu tư Bộ GTVT đưa ra hiện nay là 7,8 tỷ USD nhưng khi hoàn công, tui chắc là sẽ gấp ít nhất 1,5lần số đó, và với tình trạng kinh tế VN hiện nay thì 100% đó là tiền vay.”
Trong văn bản báo cáo Thủ tướng, Bộ GTVT cho rằng rất khó mở rộng để nâng công suất sân bay TSN vì thiếu đất và cần đến 9,1 tỉ USD để mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất (TSN), nên xây dựng sân bay Long Thành là giải pháp tốt hơn.
Trong khi đó, phần đất 157 ha trong sân bay TSN, thuộc khu vực quân sự cho thuê làm sân golf, xây tổ hợp khách sạn 5 sao và nhà hàng cao tối đa 12 tầng, khu chung cư cao cấp 8 tầng… Theo UBND quận Tân Bình, sân golf 18 lỗ này đang được xây dựng và sắp hoàn thành.
Mimi Mèo Nhe nói: “Vụ nào cũng khui ra be bét, nhưng mà cuối cùng cũng đều được cho chìm xuồng một cách nhẹ nhàng êm thắm không gợn tí sóng nào cả!”
UBND tỉnh Đồng Nai cho biết sẽ có khoảng 5.400 hộ dân bị ảnh hưởng và khoảng 3.000 hộ phải giải tỏa trắng để lấy đất xây dựng sân bay Long Thành.
Sự việc này có thể biến 5.400 hộ dân đang an cư trở thành dân oan không nhà không cửa. Điều này đã được minh chứng rõ ràng trong quá khứ, cụ thể vào hồi tháng 04.2012, chính quyền huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ra lệnh cưỡng chế thu hồi đất trên 500 mẫu của khoảng 4000 hộ dân để làm dự án khu đô thị-thương mại-du lịch Ecopark của công ty Đầu tư Bất động sản Việt Hưng. Người dân được đền bù 43000 đồng một mét vuông, một mức giá mà họ cho là quá rẻ mạt, quá bất công nên 1800 hộ ở ba xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao kiên quyết phản đối không chịu nhận tiền đền bù – Theo Báo cáo Nhân quyền VN 2012.
Tiếp đó, cuối năm 2007, chính quyền huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định đã muốn lấy 165 mẫu đất của dân ba xã Liên Minh, Liên Bảo và Kim Thái thuộc huyện Vụ Bản để bán cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam thực hiện dự án khu công nghiệp Bảo Minh. Nhưng những người có đất bị thu hồi không chấp nhận mức đền bù quá thấp, 120 hộ đã phản đối, không chịu nhận tiền đền bù và kiên quyết giữ đất mặc dù bị chính quyền dọa nạt, o ép đủ điều – Theo Báo cáo Nhân quyền VN 2012.
  (VRNs)

-Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm, TP Hồ Chí Minh: Vùng đất vàng bỏ hoang 17 năm xảy ra nhiều tiêu cực

Mời xem mấy phần đã bị “gỡ bỏ” ở DLB còn chép:     Dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm: Vùng đất vàng bỏ hoang 17 năm xảy ra nhiều tiêu cực  —Kì 3: Khu đất vàng 160ha đất tái định cư bị đánh tráo?  –Kì 4: Đánh tráo quy hoạch, phá phách nhà dân (DLB)   —    Kỳ 1 & Kỳ 2

Nguoicaotuoi

Việc áp giá đền bù chỉ tính riêng đối với hơn 11.500 hộ dân nằm trong khu quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm (ĐTMTT) là trái với các nghị định của Chính phủ. Hầu hết nhà dân bị đập bỏ để thu hồi đất từ năm 2010 trở lại đây, nhưng không có phương án bồi thường được duyệt là làm trái Điều 28 Luật Đất đai 1993, trái với Điều 50 Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Việc bồi thường thiệt hại chỉ căn cứ các quyết định số 188/QĐ-UB ngày 28/7/2004 về sửa đổi, bổ sung quyết định số 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002 của UBND thành phố quy định về đền bù thiệt hại và quyết định số 773/QĐ-UB kí ngày 26/3/2003 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt đơn giá đất ở đối với khu ĐTMTT là trái với quy định của pháp luật.

Hội đồng Bồi thường GPMB Dự án Khu ĐTMTT vẫn căn cứ vào các quyết định sai để “chế biến” chiết tính bồi thường hỗ trợ thiệt hại, trình UBND quận 2 phê duyệt và chi trả là trái pháp luật, dẫn tới các mức giá bồi thường mập mờ, vô nguyên tắc, mất dân chủ, tiền hậu bất nhất. Ban đầu thì hỗ trợ đất mặt tiền 3 triệu đồng/m2, những hộ ở phía sau 2,6 triệu đồng/m2. Sau khi người dân gửi đơn khiếu nại thì nâng giá hỗ trợ đất ở lên 4 triệu đồng/m2 còn đất nông nghiệp chỉ 50.000 đồng/m2. Người dân khiếu nại thì đất ở được hỗ trợ lên 12 triệu đồng/m2. Dân tiếp tục khiếu nại thì chính quyền phải tăng lên 16,7 triệu đồng/m2. Tài sản hợp pháp của hàng chục nghìn hộ dân mà chính quyền quận 2 muốn ngã giá bao nhiêu thì tùy. Không thể có kiểu quy định về giá bồi thường mà mức cứ dao động đi lên theo “làn sóng” phản đối của người dân? UBND quận 2 và Ban Quản lí Dự án ĐTMTT đã áp dụng kiểu giá áp đặt, cửa quyền: Cứ mỗi lần dân đòi thì chính quyền quận nhích lên một mức khác; đất thì “đánh tráo” vị trí, đưa vào rồi lại rút ra; giá cả lên xuống liên tục. Số phận gần 3.000 căn nhà ở của dân đang sinh sống ổn định, nằm ngoài ranh quy hoạch không có quyết định thu hồi đất cũng bị cưỡng chế trái pháp luật, đập phá tan tành, áp đặt giá rẻ hơn cả những hộ nằm trong ranh quy hoạch.

Những khu đất vàng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm nay.

Những khu đất vàng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm nay.

Nhà, đất có chủ quyền  thì bồi thường thấp, nhà ẩn nấp pháp luật thì được đền bù cao?

Cùng một khu đất như nhau, có hàng nghìn căn nhà nằm ngoài ranh quy hoạch, được UBND thành phố Hồ Chí Minh bán theo Nghị định 61/CP sau khi khu ĐTMTT đã được quy hoạch, khi bồi thường giá lại thấp hơn những căn hộ sử dụng đất công thổ không có chủ quyền. Trường hợp nhà của bà Lê Thị Thu Hương ở C8/9, đường Lương Định Của, phường Bình Khánh, quận 2. Xây một trệt, một lầu 130,29m2 mà chỉ được bồi thường 2,5 triệu đồng/m2, phải bị trừ đi diện tích quy hoạch lộ giới để được cấp chủ quyền về nhà ở, đất ở. Còn hàng nghìn hộ khác không được cấp chủ quyền, phần diện tích quy hoạch lộ giới chưa bị trừ ra thì vẫn được bồi thường? Trước cửa nhà bà Hương và một số hộ dân khác có một khoảnh đất trống thuộc ranh quy hoạch lộ giới, UBND phường Bình Khánh, bất chấp luật pháp, tự tiện cho nhiều hộ dân đổ đất thuê mặt bằng làm cửa hàng kinh doanh để phường thu lợi. UBND phường buộc các hộ này kí cam kết: Khi nào Nhà nước giải phóng mặt bằng thì tự tháo dỡ di dời và không được bồi thường. Vậy mà khi giải tỏa thu hồi đất giao cho Dự án Khu ĐTMTT thì ông Chủ tịch UBND phường Bình Khánh vẫn kí xác nhận cho tất cả các hộ này nhận tiền bồi thường với giá cao hơn giá của những căn nhà có sổ đỏ? Ngoài được hỗ trợ di dời 16,7 triệu đồng/m2 những căn nhà được UBND thành phố Hồ Chí Minh bán và cấp chủ quyền hợp pháp, nằm ở vị trí mặt tiền thì chỉ được nhận số tiền hỗ trợ di dời 16 triệu đồng/m2 (thấp hơn 700.000 đồng/m2) họ còn bị trừ đi phần diện tích quy hoạch ranh lộ giới. Còn nhà chung cư giá từ 3,5 đến 6,5 triệu đồng/m2, hộ dân nào nhận mua nhà thì tiền hỗ trợ 16 triệu đồng/m2 cũng bị mất. Hai căn nhà của gia đình ông Lê Văn Lung có tổng diện tích 1.000m2 ở số 9, mặt tiền đường Trần Não thuộc khu phố 1, phường Bình An nằm ngoài ranh quy hoạch chỉ bồi thường 2,35 triệu đồng/m2 trong hạn mức 200m2. Diện tích 800m2 còn lại chỉ hỗ trợ giá đất nông nghiệp. Năm 1990, ông Lung đã được chính quyền cấp chủ quyền về đất ở (giá thị trường ở con đường này khoảng 100 triệu đồng/m2). Những khái niệm đất liền kề, đất trồng cây lâu năm… đều bị Ban Quản lí Dự án và UBND quận 2 bãi bỏ hết. Luật quy định về thẩm quyền giao đất và hạn mức giao đất, UBND quận 2 lại cho ra khái niệm, “hạn mức đất được bồi thường không quá 200m2”. Thật trớ trêu, những sai phạm của Chủ tịch UBND phường Bình Khánh là cố ý làm trái. Có lần ông Chủ tịch còn cởi áo tại trụ sở UBND phường xông vào đòi đánh dân, vò nát công văn của Văn phòng Chính phủ ném xuống đất, thách đố, chửi bới những người dân đi khiếu nại với lời lẽ vô văn hóa đã bị công luận lên án gay gắt, nhưng vẫn không bị xử lí mà còn được thăng tiến lên Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận 2. Gần 3.000 căn nhà nằm ngoài ranh quy hoạch khu ĐTMTT bị chính quyền quận 2 cưỡng chế trái phép, đập phá tan tành cần phải được xem xét, bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Trong 10 năm kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch (từ 1996 – 2006) UBND quận 2 mới có thư mời Trưởng khu phố trở lên dự họp triển khai quy hoạch tỉ lệ 1/5000 và quy hoạch chi tiết 1/2000. Trong 10 năm, UBND TP Hồ Chí Minh vừa tiến hành các bước chuẩn bị đầu tiên… vừa tiến hành “phân phối, cấp phát” hàng trăm héc-ta đất cho 64 doanh nghiệp, có 28 doanh nghiệp nằm gọn trong phần diện tích 637ha đã được quy hoạch khu ĐTMTT. Khu ĐTMTT bị xé nát vì bị thiếu hụt diện tích trầm trọng.

Một “chiến dịch” tìm kế chế biến để có đất lấp đầy khu ĐTMTT. Vì đất ở khu trung tâm đã phân phát mất quá nhiều nên muốn có đủ 637ha đất cho khu trung tâm thì phải tìm cách lấy đất của khu tái định cư lấp vào, nên tự nhiên khu tái định cư biến mất. Dựa vào 3 quyết định (số 1997, số 6565 và số 6566) có nội dung trái pháp luật do ông Vũ Hùng Việt kí, ông Tất Thành Cang, Bí thư kiêm Chủ tịch UBND quận 2; ông Nguyễn Cư và ông Nguyễn Phước Hưng, Phó Chủ tịch UBND quận 2 cùng nhiều Chủ tịch UBND các phường trong quận 2 tiến hành “chiến dịch” đập phá nhà dân gây hậu quả nghiêm trọng. Gần 3.000 căn nhà nằm ngoài ranh quy hoạch và hơn 1.000 căn nhà có chủ quyền được mua hóa giá theo Nghị định 61/CP cũng bị cưỡng chế đập phá oan trái. Nhà nước phải giải ngân 38.000 tỉ đồng từ nhiều năm trước, phải chịu 150 tỉ đồng tiền lãi/tháng trong nhiều năm nay. Một số người dân bị chết oan. Hàng nghìn héc-ta đất đô thị nằm cạnh khu trung tâm thành phố lớn nhất nước bị bỏ hoang suốt 17 năm nay.

Đề nghị Thủ tướng Chính phủ sớm có biện pháp chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành thanh kiểm tra và kiểm toán dự án này nhằm phục hồi quyền và lợi ích chính đáng cho người dân, giải quyết dứt điểm các “làn sóng” khiếu kiện vượt cấp kéo dài.

Thiên Thanh – Hải Đăng – Tùng Lâm – Thanh Hằng